
Chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa là gì? Xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa được quy định như thế nào?
Luật sư cho tôi hỏi: Tôi là chủ một doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh hàng tiêu dùng. Trong quá trình hoạt động, tôi nhận thấy nhiều doanh nghiệp nhỏ như mình thường gặp khó khăn trong việc hiểu và áp dụng đúng quy định pháp luật, nhất là khi có thay đổi chính sách mới. Tôi nghe nói Nhà nước có chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm giúp các doanh nghiệp nâng cao hiểu biết pháp luật và hạn chế rủi ro trong kinh doanh. Tuy nhiên, tôi chưa rõ chương trình này được xây dựng, tổ chức và triển khai ra sao? Mong luật sư tư vấn giúp tôi, xin cảm ơn.
MỤC LỤC
1. Chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa là gì?
3.1. Xây dựng và phê duyệt chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
3.2. Triển khai thực hiện chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trả lời:
1. Chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa là gì?
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế, doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỷ lệ lớn và giữ vai trò quan trọng trong tăng trưởng, tạo việc làm và ổn định xã hội. Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp này còn hạn chế trong việc tiếp cận, nắm bắt và vận dụng quy định pháp luật. Nhằm tăng cường năng lực pháp lý, tạo điều kiện để doanh nghiệp hoạt động đúng quy định, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 55/2019/NĐ-CP ngày 24/6/2019 về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (sau đây gọi tắt là “Nghị định số 55/2019/NĐ-CP”). Trong đó, “Chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa” được xác định là nội dung trọng tâm, làm cơ sở để tổ chức triển khai thống nhất các hoạt động hỗ trợ pháp luật dành cho doanh nghiệp.
Khoản 2 Điều 3 Nghị định số 55/2019/NĐ-CP đã giải thích như sau:
“Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Nghị định này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
2. Chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa là tập hợp các hoạt động do một cơ quan, tổ chức chủ trì thực hiện dưới các hình thức, nội dung cụ thể, trong một thời hạn nhất định theo quy định của Nghị định này nhằm cung cấp thông tin, bồi dưỡng kiến thức pháp luật và tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.”
Như vậy, chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa được hiểu là tập hợp các hoạt động do một cơ quan, tổ chức chủ trì thực hiện dưới các hình thức, nội dung cụ thể, trong một thời hạn nhất định theo Nghị định số 55/2019/NĐ-CP nhằm để cung cấp thông tin, bồi dưỡng kiến thức pháp luật và tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Khái niệm này thể hiện rõ định hướng của Nhà nước trong việc chủ động hỗ trợ, nâng cao năng lực pháp lý và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đây không chỉ là cơ chế triển khai hỗ trợ, mà còn là biểu hiện cụ thể của chính sách kiến tạo, đồng hành cùng doanh nghiệp trong thời kỳ hội nhập và phát triển bền vững.
2. Căn cứ xây dựng và các hoạt động của chương trình hỗ trợ tư vấn pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng như thời hạn thực hiện chương trình này được pháp luật quy định ra sao?
Để triển khai công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa một cách thống nhất, có trọng tâm và mang lại hiệu quả thực chất. Pháp luật đã nêu rõ về căn cứ xây dựng và các hoạt động của chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng như thời gian để thực hiện chương trình này tại Điều 10, 11 Nghị định số 55/2019/NĐ-CP như sau:
“Điều 10. Căn cứ xây dựng và các hoạt động của chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
1. Căn cứ xây dựng chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa:
a) Nhu cầu hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong từng thời kỳ, ngành, lĩnh vực, địa phương;
b) Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và kế hoạch ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương cấp tỉnh;
c) Nguồn lực của bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương cấp tỉnh, tổ chức đại diện cho doanh nghiệp.
2. Các hoạt động của Chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa bao gồm:
a) Hoạt động cung cấp thông tin, bao gồm thông tin pháp luật trong nước, thông tin pháp luật nước ngoài, pháp luật quốc tế, cảnh báo rủi ro pháp lý và chính sách của ngành, lĩnh vực, địa phương liên quan đến doanh nghiệp nhỏ và vừa (nếu có);
b) Hoạt động bồi dưỡng kiến thức pháp luật, bao gồm bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho người làm công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa và bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho mạng lưới tư vấn viên pháp luật;
c) Hoạt động tư vấn pháp luật, bao gồm đối thoại, giải quyết các vướng mắc pháp lý cho doanh nghiệp và các hoạt động tư vấn pháp luật khác phù hợp với các quy định của pháp luật trên cơ sở nhu cầu của doanh nghiệp nhỏ và vừa và nguồn lực theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều này.
Điều 11. Thời hạn thực hiện chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
1. Chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa có thời hạn tối đa 05 năm kể từ ngày được phê duyệt.
2. Cơ quan, tổ chức chủ trì thực hiện chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tổ chức tổng kết để xây dựng hoặc đề xuất xây dựng chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trên cơ sở nhu cầu của doanh nghiệp và nguồn lực của cơ quan, tổ chức.”
Trước hết, về căn cứ xây dựng chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, gồm 03 căn cứ cơ bản sau:
- Nhu cầu hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong từng thời kỳ, ngành, lĩnh vực, địa phương. Mỗi giai đoạn phát triển, mỗi ngành nghề hay địa phương đều có đặc thù riêng về hoạt động sản xuất, kinh doanh, cũng như những vấn đề pháp lý mà doanh nghiệp gặp phải. Việc xác định căn cứ này giúp chương trình được thiết kế phù hợp với thực tế, hướng đúng vào những nội dung doanh nghiệp đang cần được hỗ trợ nhất, tránh hình thức, chung chung.
- Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và kế hoạch ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương cấp tỉnh. Căn cứ này bảo đảm rằng chương trình hỗ trợ pháp lý luôn cập nhật, đồng hành cùng tiến trình hoàn thiện hệ thống pháp luật, giúp doanh nghiệp nhanh chóng thích nghi với thay đổi của môi trường pháp lý, hạn chế rủi ro trong quá trình tuân thủ.
- Nguồn lực của bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương cấp tỉnh, tổ chức đại diện cho doanh nghiệp.
Có thể thấy, ba căn cứ nêu trên đã tạo thành nền tảng vững chắc, giúp chương trình hỗ trợ pháp lý được xây dựng một cách khoa học, phù hợp với yêu cầu thực tế và điều kiện của từng cơ quan, địa phương.
Không những vậy, điều khoản trên còn liệt kê rõ những hoạt động của chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, chủ yếu gồm:
- Hoạt động cung cấp thông tin, bao gồm thông tin pháp luật trong nước, thông tin pháp luật nước ngoài, pháp luật quốc tế, cảnh báo rủi ro pháp lý và chính sách của ngành, lĩnh vực, địa phương liên quan đến doanh nghiệp nhỏ và vừa;
- Hoạt động bồi dưỡng kiến thức pháp luật, bao gồm bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho người làm công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa và bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho mạng lưới tư vấn viên pháp luật;
- Hoạt động tư vấn pháp luật, bao gồm đối thoại, giải quyết các vướng mắc pháp lý cho doanh nghiệp và các hoạt động tư vấn pháp luật khác phù hợp với các quy định của pháp luật trên cơ sở nhu cầu của doanh nghiệp nhỏ và vừa và nguồn lực của bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương cấp tỉnh, tổ chức đại diện cho doanh nghiệp.
Nhìn chung, ba nhóm hoạt động trên mang ý nghĩa hỗ trợ toàn diện cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, vừa cung cấp tri thức, vừa hướng dẫn thực hành, vừa tạo cơ chế đối thoại hai chiều giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lý. Nhờ đó, chương trình không chỉ góp phần nâng cao hiểu biết pháp lý của doanh nghiệp mà còn thúc đẩy văn hóa pháp luật trong kinh doanh, xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, minh bạch và phát triển bền vững.
Sau khi quy định rõ căn cứ và nội dung hoạt động, Nghị định số 55/2019/NĐ-CP tiếp tục xác định thời hạn thực hiện của chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Điều 11, nhằm bảo đảm việc triển khai chương trình có kế hoạch, có chu kỳ và được đánh giá thường xuyên để duy trì hiệu quả lâu dài.
Cụ thể, chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa có thời hạn tối đa là 05 năm kể từ ngày được phê duyệt. Việc xác định thời hạn cụ thể giúp cơ quan, tổ chức chủ trì có căn cứ xây dựng lộ trình thực hiện, phân bổ nguồn lực, cũng như xác định các mục tiêu cần đạt được trong từng giai đoạn. Khoảng thời gian 5 năm là tương đối phù hợp, đủ dài để thực hiện các hoạt động có chiều sâu, nhưng cũng đủ ngắn để có thể kịp thời đánh giá, điều chỉnh hoặc đổi mới nội dung, phương thức hỗ trợ cho phù hợp với bối cảnh pháp lý và thực tiễn kinh doanh luôn thay đổi.
Bên cạnh đó, cơ quan, tổ chức chủ trì thực hiện chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa phải tiến hành tổ chức tổng kết để xây dựng hoặc đề xuất xây dựng chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trên cơ sở nhu cầu của doanh nghiệp và nguồn lực của cơ quan, tổ chức. Đây là một quy định rất có ý nghĩa, bởi nó khẳng định chu trình khép kín, liên tục và phát triển của công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Việc tổng kết không chỉ nhằm đánh giá kết quả đạt được, mà còn là cơ hội để lắng nghe phản hồi từ doanh nghiệp, qua đó hoàn thiện nội dung, phương thức triển khai trong giai đoạn kế tiếp. Nhờ vậy, chính sách hỗ trợ pháp lý trở nên liên tục, bền vững, có tính kế thừa và cải tiến, phản ánh đúng tinh thần “đồng hành cùng doanh nghiệp” của Nhà nước.
Như vậy, những điều khoản trên đã tạo nên một khuôn khổ pháp lý toàn diện, chặt chẽ cho việc xây dựng và thực hiện chương trình hỗ trợ pháp lý dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Sự kết hợp giữa việc xác định rõ căn cứ, nội dung hoạt động và quy định cụ thể về thời hạn triển khai thể hiện tư duy quản lý có hệ thống, vừa bảo đảm tính khoa học, vừa linh hoạt thích ứng với nhu cầu thực tiễn. Điều này giúp cho chương trình không chỉ được thiết kế đúng hướng và sát thực tế, mà còn được tổ chức theo chu trình khép kín, từ xây dựng, thực hiện đến tổng kết, đánh giá và đổi mới.
3. Xây dựng và phê duyệt, triển khai thực hiện chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa được thực hiện ra sao?
3.1. Xây dựng và phê duyệt chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, việc xây dựng và phê duyệt chương trình hỗ trợ đóng vai trò nền tảng, quyết định hiệu quả triển khai các hoạt động sau này. Do đó, Điều 12 Nghị định số 55/2019/NĐ-CP đã thiết lập cơ chế xây dựng và phê duyệt chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa như sau:
“Điều 12. Xây dựng và phê duyệt chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
1. Đối với chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa:
a) Bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; tổ chức đại diện cho doanh nghiệp; tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ hỗ trợ pháp lý chủ động hoặc theo yêu cầu của Bộ Tư pháp đề xuất hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, gửi đến Bộ Tư pháp để tổng hợp xây dựng chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa;
b) Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp và tổ chức khác, cá nhân có liên quan xây dựng chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
2. Đối với chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phạm vi bộ, cơ quan ngang bộ thì bộ, cơ quan ngang bộ lồng ghép các nội dung của chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa vào Đề án hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa của bộ, cơ quan ngang bộ theo quy định tại Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11 tháng 3 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa hoặc văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế Nghị định này.
3. Đối với chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phạm vi địa phương:
a) Sở Tư pháp chủ trì, phối hợp với các sở, ngành, tổ chức đại diện cho doanh nghiệp, tổ chức khác và cá nhân có liên quan xây dựng và đề xuất chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phạm vi địa phương trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt;
b) Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phạm vi địa phương trên cơ sở đề nghị của Sở Tư pháp;
c) Hội đồng nhân dân cấp tỉnh bố trí kinh phí thực hiện chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phạm vi địa phương.
4. Quyết định phê duyệt chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định tại các khoản 1 và 3 Điều này và nội dung chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định tại khoản 2 Điều này phải được gửi cho Bộ Tư pháp, bộ, cơ quan ngang bộ liên quan và đăng công khai trên cổng thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức chủ trì thực hiện.
5: Việc điều chỉnh chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa hoặc nội dung chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong Đề án hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa sau khi phê duyệt được thực hiện theo quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này.”
* Lưu ý: Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng với Bộ Tài chính được hợp nhất thành Bộ Tài chính (căn cứ mục 2.3 Phần II Kết luận số 121-KL/TW ngày 24/01/2025 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XIII về tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và khoản 6 Điều 1 Nghị quyết số 176/2025/QH15 ngày 18/02/2025 của Quốc hội về cơ cấu tổ chức của Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khoá XV).
Đối với chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, điều khoản nêu rõ:
- Bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; tổ chức đại diện cho doanh nghiệp; tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ hỗ trợ pháp lý chủ động hoặc theo yêu cầu của Bộ Tư pháp đề xuất hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, gửi đến Bộ Tư pháp để tổng hợp xây dựng chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa;
- Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp và tổ chức khác, cá nhân có liên quan xây dựng chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Nội dung này khẳng định, Bộ Tư pháp với vai trò trung tâm điều phối, định hướng và thống nhất quản lý hoạt động hỗ trợ pháp lý trên phạm vi cả nước, đồng thời thể hiện tinh thần phối hợp liên ngành, liên cấp giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức đại diện doanh nghiệp và các chủ thể cung cấp dịch vụ pháp lý. Cơ chế này giúp huy động nguồn lực đa dạng, phản ánh sát nhu cầu thực tế của cộng đồng doanh nghiệp, bảo đảm các hoạt động hỗ trợ được triển khai đồng bộ, tránh chồng chéo, phân tán, nâng cao hiệu quả và tính bền vững của chính sách. Qua đó, Nhà nước thể hiện rõ cam kết đồng hành, tạo nền tảng pháp lý vững chắc để doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển ổn định, tự tin hội nhập và cạnh tranh trên thị trường.
Đối với chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phạm vi bộ, cơ quan ngang bộ thì bộ, cơ quan ngang bộ tiến hành lồng ghép các nội dung của chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa vào Đề án hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa của bộ, cơ quan ngang bộ theo Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa hoặc văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế Nghị định số 39/2018/NĐ-CP này. Quy định này cho thấy tư duy tích hợp và tính hệ thống trong chính sách hỗ trợ doanh nghiệp. Hoạt động hỗ trợ pháp lý không đứng riêng lẻ mà trở thành một bộ phận hữu cơ trong chiến lược hỗ trợ tổng thể của từng bộ, ngành. Nhờ đó, doanh nghiệp được hưởng sự hỗ trợ đồng bộ, toàn diện, vừa về pháp lý, vừa về cơ chế, chính sách, tài chính hay đổi mới sáng tạo, phù hợp với đặc thù ngành nghề mà họ đang hoạt động.
Còn đối với chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phạm vi địa phương, cần tuân thủ:
- Sở Tư pháp chủ trì, phối hợp với các sở, ngành, tổ chức đại diện cho doanh nghiệp, tổ chức khác và cá nhân có liên quan xây dựng và đề xuất chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phạm vi địa phương trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt;
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phạm vi địa phương trên cơ sở đề nghị của Sở Tư pháp;
- Hội đồng nhân dân cấp tỉnh bố trí kinh phí thực hiện chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phạm vi địa phương.
Cơ chế này thể hiện nguyên tắc phân cấp, phân quyền rõ ràng, tạo điều kiện cho địa phương chủ động xây dựng các mô hình hỗ trợ phù hợp với thực tế kinh tế, xã hội, quy mô doanh nghiệp và nhu cầu đặc thù của từng vùng, miền. Việc đưa Sở Tư pháp vào vai trò trung tâm ở cấp tỉnh cũng giúp tăng cường tính chuyên môn, kỷ luật pháp lý và sự bám sát thực tiễn trong quá trình triển khai.
Cần lưu ý rằng, quyết định phê duyệt chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; quyết định phê duyệt chương trình hỗ trợ pháp lý do doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phạm vi địa phương cũng như nội dung chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phạm vi bộ, cơ quan ngang bộ nêu trên phải được gửi cho Bộ Tư pháp, bộ, cơ quan ngang bộ liên quan và đăng công khai trên cổng thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức chủ trì thực hiện. Ngoài ra, việc điều chỉnh chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa hoặc nội dung chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong Đề án hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa sau khi phê duyệt cũng được thực hiện theo những nội dung nêu trên.
Từ những phân tích trên, ta thấy rằng điều luật này có ý nghĩa quan trọng trong việc thiết lập một cơ chế phối hợp chặt chẽ và thống nhất giữa các cấp, các ngành trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Thông qua việc xác định rõ vai trò của từng chủ thể từ trung ương đến địa phương, Nhà nước bảo đảm sự điều hành nhịp nhàng, tránh trùng lặp và nâng cao hiệu quả quản lý. Đồng thời, quy định cũng thể hiện tính chủ động, linh hoạt và trách nhiệm của các cơ quan, khi cho phép địa phương và các bộ, ngành xây dựng chương trình riêng phù hợp với đặc thù phát triển. Nhờ đó, hoạt động hỗ trợ pháp lý được triển khai một cách đồng bộ, thực tế, đáp ứng đúng nhu cầu của doanh nghiệp và góp phần tạo dựng môi trường pháp lý minh bạch, ổn định cho khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển bền vững.
3.2. Triển khai thực hiện chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
Căn cứ tại Điều 13 Nghị định số 55/2019/NĐ-CP quy định chi tiết về việc triển khai thực hiện chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa như sau:
“Điều 13. Triển khai thực hiện chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
1. Sau khi chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thực hiện chương trình trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình hoặc giao cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có chức năng, nhiệm vụ hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa thực hiện.
Cơ quan, tổ chức chủ trì thực hiện chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ban hành và công bố công khai kế hoạch triển khai thực hiện trên cổng thông tin điện tử của mình và Trang thông tin điện tử hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa của Bộ Tư pháp.
2. Việc lựa chọn, ký hợp đồng, đánh giá kết quả thực hiện và thanh lý hợp đồng với cơ quan, tổ chức, cá nhân có chức năng cung cấp dịch vụ hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa để triển khai các hoạt động của chương trình được thực hiện theo quy định của pháp luật đấu thầu và pháp luật có liên quan.
3. Căn cứ vào nội dung, nguồn lực của chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định tại khoản 1 Điều này và nhu cầu hỗ trợ pháp lý của doanh nghiệp nhỏ và vừa thành viên, tổ chức đại diện cho doanh nghiệp có thể đề xuất chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa do mình chủ trì thực hiện theo đúng nội dung chương trình hỗ trợ, pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định tại khoản 1 Điều này:
a) Căn cứ vào nội dung, nguồn lực của chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định tại khoản 1 Điều này, bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hỗ trợ kinh phí nhưng tối đa không quá 50% kinh phí thực hiện chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa do tổ chức đại diện cho doanh nghiệp đề xuất từ nguồn kinh phí thực hiện chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định tại khoản 1 Điều này. Kinh phí còn lại do tổ chức đại diện cho doanh nghiệp tự chi trả hoặc từ nguồn xã hội hóa, huy động từ các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp để thực hiện;
b) Việc lựa chọn, ký hợp đồng, đánh giá kết quả thực hiện và thanh lý hợp đồng với tổ chức đại diện cho doanh nghiệp nhỏ và vừa để thực hiện chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa quy định tại khoản này được thực hiện theo quy định của pháp luật đấu thầu và pháp luật có liên quan.”
Theo đó, sau khi chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, thì bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thực hiện chương trình trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình hoặc giao cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có chức năng, nhiệm vụ hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa thực hiện. Cách thức này thể hiện tinh thần chủ động và tính linh hoạt trong quản lý nhà nước, giúp rút ngắn khoảng cách giữa hoạch định và hành động, đồng thời tăng tính trách nhiệm của từng chủ thể được giao nhiệm vụ.
Bên cạnh đó, pháp luật yêu cầu cơ quan, tổ chức chủ trì thực hiện chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ban hành và công bố công khai kế hoạch triển khai thực hiện trên cổng thông tin điện tử của mình và Trang thông tin điện tử hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa của Bộ Tư pháp. Việc công khai này giúp đảm bảo sự tiếp cận thông tin kịp thời cho doanh nghiệp, tạo điều kiện để họ chủ động tham gia, theo dõi và phản hồi quá trình thực hiện.
Về việc lựa chọn, ký hợp đồng, đánh giá kết quả thực hiện và thanh lý hợp đồng với cơ quan, tổ chức, cá nhân có chức năng cung cấp dịch vụ hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa để triển khai các hoạt động của chương trình sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật đấu thầu và pháp luật có liên quan, cho thấy Nhà nước chú trọng đến yếu tố chuyên nghiệp và minh bạch trong khâu tổ chức thực hiện.
Một điểm tiến bộ khác rằng, căn cứ vào nội dung, nguồn lực của chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa theo khoản 1 Điều 13 Nghị định số 55/2019/NĐ-CP và nhu cầu hỗ trợ pháp lý của doanh nghiệp nhỏ và vừa thành viên, tổ chức đại diện cho doanh nghiệp có thể đề xuất chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa do mình chủ trì thực hiện theo đúng nội dung chương trình hỗ trợ, pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa theo khoản 1 Điều 13 Nghị định số 55/2019/NĐ-CP như sau:
- Căn cứ vào nội dung, nguồn lực của chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa theo khoản 1 Điều 13 Nghị định số 55/2019/NĐ-CP, bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hỗ trợ kinh phí nhưng tối đa không quá 50% kinh phí thực hiện chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa do tổ chức đại diện cho doanh nghiệp đề xuất từ nguồn kinh phí thực hiện chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa theo khoản 1 Điều 13 Nghị định số 55/2019/NĐ-CP. Kinh phí còn lại do tổ chức đại diện cho doanh nghiệp tự chi trả hoặc từ nguồn xã hội hóa, huy động từ các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp để thực hiện;
- Việc lựa chọn, ký hợp đồng, đánh giá kết quả thực hiện và thanh lý hợp đồng với tổ chức đại diện cho doanh nghiệp nhỏ và vừa để thực hiện chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa này được thực hiện theo quy định của pháp luật đấu thầu và pháp luật có liên quan.
Như vậy, nhìn một cách tổng thể, điều khoản này không chỉ xác lập một quy trình triển khai khoa học, rõ ràng và có thể kiểm soát, mà còn mở rộng không gian thực thi cho nhiều chủ thể khác nhau cùng tham gia. Nhờ đó, việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa không dừng lại ở phạm vi hành chính, mà trở thành một hệ sinh thái hỗ trợ đa tầng, liên kết chặt chẽ giữa Nhà nước, tổ chức xã hội và cộng đồng doanh nghiệp. Đây chính là nền tảng quan trọng để chính sách hỗ trợ pháp lý đi vào đời sống kinh tế một cách thực chất, góp phần củng cố niềm tin của doanh nghiệp vào thể chế và môi trường pháp lý Việt Nam.
Trân trọng./.












