Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm số 18/2020/HNGĐ-PT ngày 28/8/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ về việc tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

Nội dung hủy án:   

(i) Như vậy, việc hoãn các phiên tòa thuộc trường hợp hoãn phiên tòa do Tòa án nên tại phiên tòa được mở lại (phiên tòa ngày 20/3/2020) đương sự hoặc người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt thì được coi là vắng mặt lần thứ nhất (Án lệ số 12/2017/AL xác định trường hợp đương sự được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất sau khi Tòa án đã hoãn phiên tòa)

Cấp sơ thẩm không chấp nhận đơn đề nghị hoãn phiên tòa ngày 20/3/2020 của Văn phòng luật sư Lâm Sơn (do Luật sư Phan Đình H là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn L) và của bị đơn L, mà vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ là vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn, bởi lẽ:

Ngày 06/3/2020 tại Văn phòng luật sư Lâm Sơn, Tòa án đã tiến hành tổng đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử lúc 14 giờ ngày 20/3/2020. Sau khi nhận quyết định cùng ngày 06/3/2020, Trưởng văn phòng luật sư Lâm Sơn có đơn đề nghị hoãn phiên tòa ngày 20/3/2020 với lý do: “Luật sư H đã xuất cảnh ra nước ngoài từ chiều ngày 02/3/2020, dự kiến ngày 22/3/2020 mới trở lại Việt Nam và xin dời lại ngày khác vào cuối tháng 3/2020”. Lẽ ra, sau khi nhận được phản hồi từ phía Luật sư Lâm Sơn, cấp sơ thẩm phải tiến hành thủ tục tống đạt lại cho Luật sư H hoặc xác minh thông tin cung cấp, nhưng không thực hiện, mà cho rằng đơn xin hoãn của Văn phòng luật sư Lâm Sơn không hợp lệ, chứng tỏ mâu thuẫn với việc cấp tống đạt, việc tống đạt chưa hợp lệ.

Đối với đơn xin hoãn của ông L với 02 lý do: Do luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông L đi nước ngoài, thứ 2 do tình hình dịch bệnh Covid 19 diễn biến phức tạp và theo Chỉ thị số 02/2020/CT-CA ngày 10/3/2020 của Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao về phòng chống dịch Covid 19; đây là lý do xin hoãn chính đáng do trở ngại khách quan.

(ii) Cấp sơ thẩm cho rằng, bà H chứng minh được việc bà H có đủ điều kiện nuôi con về kinh tế, về tinh thần, như: cung cấp chứng cứ có chỗ ở ổn định, có thu nhập cao, có tình yêu thương vô bờ bến của người mẹ…; còn ông L không cung cấp được chứng cứ chứng minh có tài sản, thu nhập cố định trên giấy tờ chỉ 9.000.000 đồng/tháng, ông L nuôi con hay bị bệnh…. Tuy nhiên, theo ông L, ông cũng có đầy đủ điều kiện nuôi con, cháu L phát triển bình thường, chăm ngoan, khỏe mạnh, trong môi trường gia đình có cuộc sống lành mạnh, láng giềng yêu quý, hiện nay phát triển tốt về thể chất và tinh thần, cháu được đến lớp, đến trường, không bị bỏ đói, thiếu mặc, không bị đánh đập, ngược đãi, … Nhưng cấp sơ thẩm không làm rõ, cũng không yêu cầu bà H chứng minh ông L không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, cũng như không xác minh điều kiện hoàn cảnh gia đình, việc nuôi con chăm sóc giáo dục con của ông L tại địa phương, là thu thập chứng cứ chưa đầy đủ.

(iii) Đối với việc bà H cung cấp chứng cứ về việc ngăn cản khi đến thăm con: Vi bằng số 305/2019VB-TPL ngày 21/6/2019, số 385/2019/VBB-TPL ngày 14/7/2019 và số 620/2019/VB-TPL ngày 10/11/2019. Xét thấy, nội dung các vi bằng chỉ thể hiện việc bà H đến nhà ông L để thăm con, đưa con đi chơi nhưng bị ông L đưa ra các lý do từ chối, nhưng vi bằng chỉ thông qua lời của bà H để thừa phát lại ghi nhận, chứ thừa phát lại không trực tiếp chứng kiến cuộc trao đổi giữa ông L và bà H. Trong khi ông L không thừa nhận, do vậy cũng cần thu thập thông tin tại địa phương xem ông L có hành vi cản trở, ngăn cản bà H thực hiện quyền thăm nom hay không, do đây là hành vi bạo lực gia đình, để làm căn cứ giải quyết vụ án.

Bài viết liên quan

Góp ý