Nội dung hủy án:
Anh Lê Việt C và chị Lê Hồng Tr kết hôn hợp pháp ngày 28/8/2007 tại Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện Đ (nay là phường , thị xã Đ) rong quá trình chung sống, vợ chồng bất đồng quan điểm dẫn đến phát sinh mâu thuẫn, chị Tr thường xuyên đi làm xa nhà, không quan tâm đến chồng, con nên cuộc sống vợ chồng không có tình cảm, vợ chồng đã sông ly thân từ năm 2018 cho đến nay mà không còn quan tâm đến nhau. Anh C làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Lê Hồng Tr, giao anh C trực tiếp trông nom, chăm sóc con chung Lê Hạo N, sinh ngày 24/6/2008, chị Tr không phải cấp dưỡng nuôi con.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn chị Lê Hồng Tr không có mặt tại nơi cư trú, Toà án đã tiến hành xác minh tại nơi đăng ký cư trú của chị Tr và anh C ở khu H, phường M, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh; lấy lời khai của chị Lê Thị Y (là chị gái chị Tr trú tại thôn 12, xã H, huyện V), thì được đại diện khu phố và chị Y cung cấp thông tin xác định chị Tr hiện vắng mặt tại nơi cư trú, thường xuyên không có nhà, đang làm công việc lưu động, không có chỗ ở ổn định, thỉnh thoảng mới về nhà thăm con ở phường Mạo Khê, thị xã Đông Triều và thăm gia đình chị Tr ở xã H, huyện V. Tuy nhiên, Toà án không yêu cầu cung cấp thông tin làm rõ lần gần nhất chị Tr về nhà, có mặt tại nơi cư trú là vào thời gian nào (trước hay sau khi thụ lý vụ án) và cũng không xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ làm rõ hiện chị Tr đang cư trú ở Việt Nam hay ở nước ngoài, mà vẫn xác định chị Tr đang ở Việt Nam để xác định thẩm quyền giải quyết vụ án, là chưa thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án, vi phạm khoản 2 Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân sự. Toà án nhận được qua đường bưu chính bản tự khai không ghi ngày tháng (chỉ ghi năm 2024) đề tên người viết, gửi là chị Lê Hồng Tr, ngoài bì thư thể hiện nơi gửi là Bưu điện “GD Mạo Khê ngày 01/4/2024”, bản tự khai không có công chứng, chứng thực của cơ quan có thẩm quyền xác định chị Tr là người viết, ký bản tự khai. Sau khi tiến hành xác minh, mặc dù chị Y (là chị gái chị Tr) cung cấp thông tin xác định bản tự khai do chị Tr viết và nhờ chị Y gửi đến Toà án, lời trình bày của chị Y mâu thuẫn với nội dung thể hiện ngoài bì thư thể hiện nơi gửi là Bưu điện “GD Mạo Khê ngày 01/4/2024”, không được gửi đi từ huyện Vân Đồn, chữ viết ngoài bì thư không phải của chị Y mà của anh Lê Việt C (nội dung này ai khai). Toà án cấp sơ thẩm vẫn đánh giá xác định bản tự khai chị Y gửi đến Toà án là tài liệu, chứng cứ hợp pháp và sử dụng làm căn cứ giải quyết vụ án, là vi phạm Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Căn cứ kết quả cung cấp thông tin tại văn bản số 2557/XNC(Đ1) ngày 03/7/2024 và văn bản số 3454/XNC (Đ1) ngày 25/8/2024 của Phòng Quản lý xuất nhập cảnh - Công an tỉnh Quảng Ninh xác định: Chị Lê Hồng Tr đã xuất cảnh lần gần nhất vào ngày 19/8/2024 qua cửa khẩu Cảng hàng không quốc tế Nội Bài, chưa có thông tin nhập cảnh Việt Nam. Như vậy, tại thời điểm Toà án cấp sơ thẩm thụ lý vụ án ngày 14/3/2024 và quá trình giải quyết vụ án, xét xử vào ngày 14/6/2024 xác định bị đơn là chị Lê Hồng Tr đang cư trú ở nước ngoài, không có mặt ở Việt Nam. Căn cứ khoản 3 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 37 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Tòa án nhân dân thị xã Đông Triều xét xử vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.