Nội dung hủy án:
Cho nên, việc Toà án cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết vụ án “Tranh chấp chia tài sản chung sau khi ly hôn” giữa nguyên đơn bà Lý Thị Đ, chị Từ Thị Kiều T2 với bị đơn ông Từ Minh T1 đã không thu thập hồ sơ giải quyết ly hôn trước đó, cũng như không xem xét kỹ Quyết định Công nhận sự thuận tình ly hôn số: 30/HGT ngày 06 tháng 9 năm 2004 của Tòa án nhân dân huyện Duyên Hải đã có hiệu lực pháp luật là vi phạm điểm g khoản 1 Điều 217 của Bộ luật tố tụng dân sự vì yêu cầu khởi kiện của bà Lý Thị Đ và chị Từ Thị Kiều T2 đã được giải quyết bằng một Quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Lẽ ra, khi nhận đơn khởi kiện, Toà án cấp sơ thẩm phải căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 192 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 trả lại đơn khởi kiện cho bà Lý Thị Đ và chị Từ Thị Kiều T2, nếu đã thụ lý giải quyết thì căn cứ vào điểm g khoản 1 Điều 217 của Bộ luật tố tụng dân sự để trả lại đơn cho đương sự mới đúng.
Từ nhận định phân tích ở mục [2.2] nêu trên nên việc chị Từ Thị Kiều T2 giữ 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Từ Minh T1 là hành vi không đúng. Ngày 27/10/2023, ông Từ Minh T1 cũng có đơn phản tố (BL56) nộp cho Toà án cấp sơ thẩm yêu cầu Toà án xem xét buộc chị Từ Thị Kiều T2 phải có nghĩa vụ trả lại 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 4, diện tích 3.905 m2 và thửa đất số 5, diện tích 4.741,9m² cùng tờ bản đồ số 3A, đất cùng tọa lạc tại ấp C, xã N, huyện D, tỉnh Trà Vinh, nhưng không được Toà án cấp sơ thẩm quan tâm xem xét quyết định. Từ đó, cấp phúc thẩm cũng không thể xem xét buộc chị T2 trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lại cho ông T1.