Bản án hình sự phúc thẩm số 157/2023/HS-PT ngày 29/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” đối với bị cáo Nguyễn Sỹ T do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Sỹ T và bị hại Nguyễn Hoàng V

Nội dung hủy án:   

(i) Quá trình điều tra kéo dài từ năm 2020 đến năm 2023, lời khai của ông H1 và ông Tuấn A có sự thay đổi. Cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm thay đổi kết quả giải quyết nguồn T về tội phạm nhưng không nêu rõ lý do, căn cứ; chỉ căn cứ vào các lời khai khác của ông H1, người làm chứng ông T5, ông Tuấn A (đã có sự thay đổi so với lời khai ban đầu) mà không đánh giá các lời khai ban đầu cũng như không đánh giá tính phù hợp trong lời khai của ông H1, ông Tuấn A với lời khai của bị hại, người làm chứng bà T3, ông T4 cũng như vị trí thương tích của bị hại; không làm rõ mâu thuẫn trong lời khai của bị cáo, bị hại, ông H1 và những người làm chứng để xác định ông H1 có đánh bị hại hay không là đánh giá chứng cứ chưa đầy đủ, toàn diện và có dấu hiệu bỏ lọt người phạm tội. Mặt khác, tại phiên tòa phúc thẩm, ông H1 không thừa nhận chữ ký, chữ viết Nguyễn Sỹ H1 và nội dung “tôi đã đọc lại biên bản những gì ghi trong biên bản là đúng những gì tôi đã khai” trong biên bản ghi lời khai ngày 13/8/2020 (bút lục số 171) nên Cơ quan điều tra cần phải điều tra xác định có phải chữ ký, chữ viết này là của ông H1 hay không để làm cơ sở xem xét, đánh giá chứng cứ giải quyết vụ án đúng pháp luật.

(ii) Bên cạnh đó, quá trình điều tra, lời khai của bị cáo, bị hại, người làm chứng có sự mâu thuẫn về việc xác định những ai tham gia đánh bị hại; ông H1 có mặt tại hiện trường hay chỉ có mặt trong nhà của bị cáo khi xảy ra sự việc; nếu ông H1 có mặt tại hiện trường thì từ thời điểm nào (trước, trong hay sau khi bị cáo và bị hại đánh nhau). Quá trình giải quyết vụ án, bị cáo có lúc khai khi bị cáo và bị hại đánh nhau thì ông H1 ra can ngăn (bút lục số 147, 151), có lúc khai khi bị cáo vào nhà, bị hại đuổi theo thì ông H1 ở trong nhà can ngăn, đẩy bị hại ra ngoài, ông T5 và ông Tuấn A vào can ngăn (bút lục số 267, 270, 405). Ông H1 có lúc khai khi nghe tiếng cãi nhau thì ông H1 đi ra nói chuyện với bị hại, ông T4 vào can ngăn bị cáo và bị hại đánh nhau (bút lục số 169), có lúc khai khi nghe tiếng cãi nhau thì chạy ra, thấy bị cáo và bị hại đánh nhau, bị cáo vào nhà, bị hại đuổi theo thì ông H1 vào nhà kéo bị hại ra (bút lục số 166, 167, 174), có lúc lại khai ông H1 không có mặt tại hiện trường, ở trong nhà thấy bị hại đuổi đánh bị cáo nên ông H1 vào can ngăn, đẩy bị hại ra ngoài (bút lục số 173, 406). Tuy nhiên, bị hại và người làm chứng bà T3, ông T4 khai bị cáo, ông H1 và bị hại chỉ đánh nhau ở ngoài, không có việc bị hại vào trong nhà của bị cáo; người làm chứng ông T5, ông Tuấn A khai chỉ can ngăn các bên đánh nhau ở ngoài cổng, không vào trong nhà, phù hợp lời khai của bị cáo tại biên bản ghi lời khai ngày 20/5/2020 (bút lục số 147, 148) nhưng quá trình điều tra, Cơ quan điều tra chỉ tiến hành đối chất giữa bị cáo và bị hại mà không tiến hành đối chất làm rõ mâu thuẫn trong lời khai của bị cáo, bị hại, ông H1 và những người làm chứng về những vấn đề nêu trên là điều tra chưa đầy đủ.

(iii) Quá trình thực nghiệm điều tra, dựng lại hiện trường, lời khai của bị cáo, bị hại và người làm chứng có sự khác nhau về diễn biến sự việc nhưng Cơ quan điều tra chỉ lập 01 biên bản, dựng chung 01 hiện trường theo những lời khai khác nhau của bị cáo, bị hại và người làm chứng là chưa thể hiện rõ vị trí, hành vi của từng người nên không thể làm cơ sở để đánh giá các tình tiết, hành vi khách quan và tính toàn diện của vụ án. Vì vậy, Cơ quan điều tra cần phải thực nghiệm điều tra, dựng lại từng hiện trường, diễn lại hành vi, tình huống theo từng lời khai khác nhau của bị cáo, bị hại và người làm chứng.

(iv) Về cơ chế hình thành thương tích của bị hại:

Lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm xác định chỉ dùng tay phải đấm 02 cái vào gò má, hàm phải và mũi của bị hại. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai chỉ dùng tay phải đấm 02 cái vào vùng cằm phải và vùng mang tai phải của bị hại. Tuy nhiên, giấy chứng nhận thương tích và các kết luận giám định xác định bị hại có nhiều thương tích như vỡ thành xoang hàm phải, gãy xương gò má phải, gãy xương cánh mũi trái và vỡ xương thành ngoài hốc mắt phải. Như vậy, lời khai của bị cáo về việc đấm 02 cái gây thương tích cho bị hại chưa phù hợp với hậu quả thương tích thực tế của bị hại. Cơ quan điều tra chưa làm rõ việc bị cáo đấm bị hại 02 cái vào vùng mặt bị hại gây nên những thương tích nào, ngoài thương tích do bị cáo gây ra thì đối với những thương tích còn lại do ai gây ra, nguyên nhân, cơ chế hình thành các thương tích này như thế nào.

(v) Như vậy, có sự mâu thuẫn trong giấy chứng nhận thương tích của Bệnh viện Becamex, giấy chứng nhận thương tích của Bệnh viện Colombia Asia, kết luận giám định của Phân viện tại Thành phố Hồ Chí Minh – Viện Pháp y Quốc gia và kết luận giám định Viện Pháp y Quốc gia – Bộ Y tế về việc xác định bị hại có bị thương tích gãy xương sườn III bên phải hay không nhưng sau khi có kết quả giám định cuối cùng, Cơ quan điều tra không tiến hành, điều tra làm rõ mâu thuẫn về thương tích của bị hại là điều tra chưa đầy đủ. Mặt khác, ngoài thương tích gãy xương mũi trái, gãy thành xoang hàm phải, gãy thành hốc mắt phải thì tại kết luận giám định của Phân viện tại Thành phố Hồ Chí Minh – Viện Pháp y Quốc gia xác định thương tích của bị hại “viêm xoang hàm phải: 08%” nhưng tại kết luận giám định của Viện Pháp y Quốc gia – Bộ Y tế xác định “gãy cung tiếp gò má phải 08%”, không có thương tích “viêm xoang hàm phải” nhưng Cơ quan điều tra không làm rõ 02 loại thương tích này có phải là một, chỉ khác nhau về tên gọi hay là 02 loại thương tích khác nhau.

(vi) Quá trình giải quyết vụ án, bị hại yêu cầu thường thiệt hại gồm chi phí điều trị thương tích, thu nhập thực tế bị mất, bồi thường cho người chăm sóc bị hại, bồi thường chi phí điều trị lâu dài, cấp dưỡng, bồi thường tổn thất tinh thần và chi phí thuê Luật sư tổng cộng với số tiền 451.856.220 đồng (đơn yêu cầu bồi thường ngày 26/7/2023). Tại phiên tòa sơ thẩm, bị hại chỉ yêu cầu giải quyết trong vụ án khác đối với những chi phí điều trị sau này của bị hại (biên bản phiên tòa sơ thẩm – bút lục số 406). Những yêu cầu về thu nhập thực tế bị mất của bị hại, của người chăm sóc, bồi thường lâu dài, bồi thường về cấp dưỡng, bồi thường tổn thất tinh thần, chi phí thuê Luật sư bảo vệ quyền lợi của bị hại, Tòa án cấp sơ thẩm không làm rõ và yêu cầu bị hại cung cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh về thiệt hại, chưa đánh giá, xem xét, nhận định đầy đủ, toàn diện đối với từng yêu cầu bồi thường của bị hại để quyết định chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của bị hại là giải quyết vụ án chưa toàn diện, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp người yêu cầu.

Góp ý