Bản án dân sự phúc thẩm số 89/2020/DS-PT ngày 06/7/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang về tranh chấp quyền sử dụng đất

Nội dung hủy án:

(i) Về việc thu thập lời khai của đương sự: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, các văn bản đều thể hiện NLQ5 vắng mặt, tại phiên tòa NLQ5 cũng được xét xử vắng mặt (Biên bản phiên tòa - BL 165, Biên bản nghị án - BL 171-173, Bản án - BL 183) nhưng trong phần bản án (BL 183) ghi: “Tại phiên tòa NLQ5 thống nhất theo lời trình bày của bà Ẩ, ông không có ý kiến gì bổ sung thêm”. Việc ghi nhận lời khai của NLQ5 thống nhất với lời khai của bà Ẩ là không khách quan. Bởi lẽ NLQ5 vắng mặt không trình bày lời khai, hơn nữa quyền lợi giữa NLQ5 với bà Ẩ (nguyên đơn) đang bị đối lập nhau.

(ii) Về thủ tục tống đạt: Xét thấy tại biên bản giao nhận “Thông báo mở lại phiên tòa” (BL 50, 156) được giao cho ông Y, bà V, NLQ5, NLQ3 chỉ giao cho 01 người nhận với chữ ký tên là “H” và có thể hiện “Hòa” là con NLQ3. Nhưng người nhận thay này không thể hiện có mối quan hệ như thế nào với ông Y, bà V, NLQ5, sau khi nhận có giao lại tận tay cho những người được nhận thay hay không. Do thủ tục tống đạt không bảo đảm cho các đương sự tham gia phiên tòa, nhưng Tòa án xét xử vắng mặt là ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự.

(iii) Tình tiết mới phát sinh sau khi xét xử sơ thẩm như sau: NLQ5 chuyển nhượng nhà đất cho ông Đoàn Bá D và được chỉnh lý biến động sang tên trên giấy chứng nhận cho ông D vào ngày 30/12/2019. Đến ngày 16/3/2020 ông D đã chuyển nhượng nhà đất lại cho ông Nguyễn Văn Ng và được chỉnh lý biến động sang tên trên giấy chứng nhận cho ông Ng vào ngày 27/4/2020.

(iv) Đối với nguồn gốc đất của bà Trần Thị Ngọc Ẩ là do nhận chuyển nhượng của ông Bùi Hữu N và bà Lý Cuối Ph vào ngày 17/02/2003, phần đất có diện tích 146,20m2, tờ bản đồ số 74, thửa số 299 theo giấy CNQSD đất cấp cho ông N, bà Ph vào ngày 23/02/2003 (BL 73) và được chỉnh lý biến động sang tên cho bà Ẩvào ngày 03/6/2003. Theo sơ đồ thửa đất thể hiện phần đất có cạnh ngang là 12m x dài 12,5m tọa lạc tại đường QT, khu phố VTT, phường VQ, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang. Đối với nguồn gốc đất của ông Y, bà V là do nhận chuyển nhượng của bà Nguyễn Thị T theo hợp đồng chuyển nhượng ngày 24/12/2004 được UBND phường VQ chứng thực, diện tích đất 96m2, tờ bản đồ số 74, thửa đất số 414 (trong hợp đồng chuyển nhượng có thể hiện phần đất nằm trong giấy CNQSD đất số W 751614 cấp cho bà T, ngày 09/01/2004 - BL 13). Đến ngày 03/02/2005 thì ông Y, bà Ẩ được cấp giấy CNQSD đất, theo sơ đồ thửa đất bà T xin chuyển nhượng cho ông Yên thì phần đất có chiều ngang 08m x dài 12m (BL 10, 14). Căn cứ theo lời khai của bà Ẩ tại thời điểm bà nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì có cặm trụ và làm hàng rào, còn bà V khai bà đã nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà T từ năm 1998, nhưng thực tế cho đến năm 2004 giữa bà T với bà V ông Y mới làm hợp đồng chuyển nhượng. Do cấp sơ thẩm chưa xác minh, làm rõ hiện trạng đất và tài sản gắn liền trên đất (nhà, tài sản khác...). Vì vậy, không có cơ sở xác định được nguồn gốc phần đất tranh chấp từ trước đến nay do ai sử dụng.

(v) Đến ngày 30/12/2019 trên giấy CNQSD đất của NLQ5 được chỉnh lý biến động sang tên cho ông Đoàn Bá D. Tòa án cấp sơ thẩm không đưa ông D vào tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là có vi phạm nhưng do yếu tố khách quan (vì sau khi xét xử sơ thẩm 03 ngày, thì mới chỉnh lý biến động sang tên cho ông D). Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm không thể hiện Hội đồng xét xử có kiểm tra quyền sử dụng đất của các đương sự có bị thay đổi hay không, là chưa bảo đảm cho việc xét xử được chính xác.

(vi) Trong thời gian thụ lý phúc thẩm, ông Đoàn Bá D đã chuyển nhượng nhà đất nêu trên cho ông Nguyễn Văn Ng vào ngày 16/3/2020 và đã được chỉnh lý biến động sang tên từ ông D sang cho ông Ng vào ngày 27/4/2020 (Theo lời khai của ông Nguyễn Văn Ng tại cấp phúc thẩm). Đây là tình tiết mới phát sinh tại cấp phúc thẩm.

(vii) Về việc NLQ4 được đứng tên trên giấy CNQSD đất số BN 722759 ngày 23/02/2013, diện tích đất 60m2, thửa số 414, tờ bản đồ số 74, theo sơ đồ thửa đất thể hiện cạnh chiều ngang là 05m x dài 12m, tọa lạc tại đường QT, phường VQ, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang. Theo lời khai của NLQ3 thì quyền sử dụng đất là do ông Y bà V tặng cho lại NLQ4 ngày 23/12/2013 (BL 183 - bản án), còn ông Y thì khai rằng đã cho NLQ4 trước khi bà Ẩ tranh chấp. Như vậy, cấp sơ thẩm không xác minh làm rõ và thu thập chứng cứ, chứng minh ông Y bà Ẩ đã hợp đồng tặng cho NLQ4 quyền sử dụng đất vào thời gian nào là có thiếu sót.

Vào ngày 26/01/2018 bà Bích hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho NLQ3 (do NLQ4 ủy quyền cho ông Trần Thanh T chuyển nhượng). Vào ngày 16/01/2019 NLQ3 được cấp giấy CNQSD đất (BL 115). Hiện nay nhà đất này do gia đình NLQ3 đang sử dụng.

(viii) Tại bản án sơ thẩm, Hội đồng xét xử có nhận định :”ngày 06/5/2016 Tòa án lập đoàn xem xét thẩm định tại chỗ đối với phần đất tranh chấp...” (BL 185). Tuy nhiên, trong hồ sơ không có biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 06/5/2016 như nêu trên, mà chỉ có biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 10/5/2016 và tại biên bản này có thể hiện trên phần đất tranh chấp có “tường” (BL 64), tại phiên tòa phúc thẩm bà Vân khai trên đất bà đã cất nhà từ năm 1998. Do biên bản không thể hiện đầy đủ hiện trạng tài sản trên đất tranh chấp và không tiến hành định giá tài sản trên phần đất tranh chấp, nên cấp phúc thẩm không xem xét đánh giá và vấn đề này không thể khắc phục được.

(ix) Ngoài ra, bản án sơ thẩm chỉ căn cứ vào Công văn của NLQ1, cho rằng quyền sử dụng đất do đo đạc chưa chính xác nên không có căn cứ giải quyết tranh chấp cho các bên đương sự là thiếu cơ sở.

(x) Trong hồ sơ không có tài liệu xác minh căn nhà được xây dựng từ khi nào? Có nằm trên phần đất tranh chấp hay không?. Nguồn gốc đất, quá trình sử dụng, mốc giới tứ cận của thửa đất bà Ẩn sau khi nhận chuyển nhượng; hiện trạng thửa đất do ông Y bà V sử dụng từ trước đến nay như thế nào. Sau khi ông Y tặng cho NLQ4, NLQ4 chuyển nhượng cho NLQ3, thì sau đó NLQ4 NLQ3 có làm thay đổi hiện trạng thửa đất hay không, có xây dựng công trình mới hay không...Ngoài ra, NLQ1 trả lời đất thiếu là do đo đạc không chính xác (BL 48), nhưng lại khẳng định trình tự thủ tục cấp giấy là đúng (BL 48). Như vậy, khi cấp giấy CNQSD đất cho các đương sự trong vụ án và các đương sự có liên quan thì có đo đạc diện tích đất thực tế sử dụng hay không, các hộ có ký giáp ranh hay không? Việc đo đạc không chính xác là do lỗi của cơ quan đo đạc hay của người sử dụng đất kê khai không đúng thực tế...Do Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ, không thu thập hồ sơ cấp giấy chứng nhận cho các bên đương sự mà đã quyết định không chấp nhận đơn khởi kiện của bà Ẩ là thiếu căn cứ và chưa chính xác.

(xi) Ngoài ra, vụ án được thụ lý ngày 20/02/2012 nhưng cấp sơ thẩm lại áp dụng theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án để buộc bà Ẩn phải nộp số tiền án phí 300.000 đồng là không phù hợp. Bởi lẽ, theo quy định tại Điều 48 của Nghị quyết này quy định áp dụng về án phí khi các đương sự thuộc trường hợp không phải chịu hoặc được miễn, giảm án phí, lệ phí Tòa án.

Bài viết liên quan

Góp ý