Nội dung hủy án:
(i) Về nội dung kháng cáo của bản án sơ thẩm: Xét đơn kháng cáo bị đơn bà Trần Thị Cẩm H và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Hoàng V yêu cầu không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc hai vợ chồng ông bà trả lại cho bà Nguyễn Thị T diện tích đất 307,5m2 và giải quyết cho vợ chồng ông bà tiếp tục quản lý và sử dụng.Hội đồng xét xử xét thấy bà Nguyễn Thị S sinh năm 1945, chết ngày 28/8/2005 (Bút lục 34) không để lại di chúc. Phía nguyên đơn cho rằng mua đất của bà S ngang 50m, dài 30m bằng 1.500m2 khi bán chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cùng với đó thì (tại bút lục số 33) cho thấy bà S còn 03 người con ruột là Đỗ Hoàng V1, Đỗ Hoàng T6 và bà Nguyễn Ngọc T1 nhưng cấp sơ thẩm không đưa ông Đỗ Hoàng T6 vào tham gia tố tụng, ông Đỗ Hoàng T6 không rõ năm sinh, hiện đang sống ở thị trấn R, huyện N, tỉnh Cà Mau. Trong vụ án cùng với những người con khác nếu có của bà S là thiếu người có quyền lợi, người có nghĩa vụ liên quan. Để làm rõ việc mua bán của bà S và bà Nguyễn Thị T theo hồ sơ chuyển nhượng đến ngày 03/9/2003 (Tại bút lục số 239) Hội đồng xét xử xét thấy theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 24/5/2022 của Tòa án nhân dân huyện Kiên Hải thể hiện không đo hết phần đất theo giấy mua bán trên là chưa phù hợp. Mặt khác, các bên xác định về vị trí đất khi mua bán khác nhau. Trên núi (dưới núi) thì chưa được làm rõ việc khi mua bán đất bằng giấy như trên thì vị trí cụ thể ra sao? Mặt khác, theo tờ trích đo địa chính (Tại bút lục số 226) ngày 13/9/2012 biên bản kiểm kê diện tích đất đai, cây trồng và vật kiến trúc (Tại bút lục số 228) cho thấy diện tích đất là khác so với biên bản xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án ngày 24/5/2022 (Tại bút lục số 182). Diện tích theo xem xét thẩm định tại chỗ tại tờ trích đo địa chính số 73 – 2022 (33 -21) ngày 14/9/2022 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện K, tỉnh Kiên Giang (Tại bút lục số 184) có diện tích tranh chấp là 375,5m2. Như vậy sau khi thu hồi đất để làm đường quanh đảo L thì diện tích đất còn lại của bà Nguyễn Thị T còn lại bao nhiêu m2 chưa được làm rõ. Sau khi thu hồi diện tích 381,1m2 (Tại bút lục số 288 và 226). Các ông bà theo lời khai của những người làm chứng như các ông bà Lữ Thị S2 (Tại bút lục số 75) thì phần đất của bà S2, ông Văn Hữu N3 (Bút lục số 76) bán cho bà T là từ cây cầy trở lên núi thì hiện nay đã làm đường quanh đảo. Cấp sơ thẩm cần làm rõ phần diện tích đất bà sáu bán cho Nguyễn Thị T vào thời điểm đó phần đất dưới nùi có căn nhà bà S2 đang ở hay không để làm căn cứ xem xét phần đất dưới núi bà S2 có bán cho bà T hay không. Đồng thời phải làm rõ vào thời điểm sau khi bán đất cho cho bà T thì bà S2 có còn ở căn nhà trên phần đất dưới núi hay không. Theo hồ sơ vụ án thì các chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện Tòa án có đưa ra những người làm chứng vào tham gia tố tụng nhưng bản án không ghi lời trình bày của những người làm chứng và không đánh giá chứng cứ thông qua những người làm chứng là chưa xem xét một cách toàn diện vụ án. Mặt khác, theo yêu cầu xác minh thu thập chứng cứ của bà H (Bút lục số 127) yêu cầu Tòa án thu thập xác minh của những người làm chứng mà bà H cho rằng biết sự việc mua bán giữa bà S2 và bà T như bà: Nguyễn Thị T7, Nguyễn Thị M2, Nguyễn Thị N, Tạ Văn S1 và một số người khác nhưng tòa án cấp sơ thẩm không triệu tập để xác minh làm rõ.
(ii) Cũng theo chứng cứ có trong hồ sơ lời khai của bà Nguyễn Ngọc H1 (Tại Bút lục số 168) thì bà H1 cùng chồng là ông H và 04 người con của bà là Nguyễn Thị Huyền T8 sinh năm 2011, Nguyễn Ngọc H2 sinh năm 2015, Nguyễn Tuấn K sinh năm 2017, Nguyễn Hoài A sinh năm 2021 đang ở trên căn nhà và đất của vợ chồng ông V – bà H nhưng tòa cấp sơ thẩm không xem xét đánh giá vấn đề này là có thiếu sót mà tuyên buộc bà H trả lại đất. Tuy nhiên căn nhà của bà H1 và ông H nằm tại vị trí nào trên đất chưa được cấp sơ thẩm xác định xem vị trí cụ thể ở đâu? Thông qua sơ đồ vị trí đất tại biên bản thẩm định tại chỗ ngày 24/5/2022 (Tại bút lục số 181 và 182) thì có thể hiện diện tích đất 68,2m2 mà cấp sơ thẩm đã đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Nhưng theo tờ trích đo địa chính số 73 – 2022 (33 – 21) ngày 14/9/2022 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện K thì không thể hiện phần đất này nằm ở đâu tuy tổng đúng diện tích đất tranh chấp. Do đó 02 chứng cứ mà Tòa án thu thập được là không phù hợp với nhau.
(iii) Bà T có đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (tại bút lục 130) nhưng cấp sơ thẩm không giải quyết đơn này là có thiếu sót. Tuy nhiên tại cấp phúc thẩm, bà T cho rằng do bản án sơ thẩm đã tuyên trả lại đất cho bà nên bà không yêu cầu giải quyết đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nữa. Hồ sơ cấp sơ thẩm đánh bút lục không đúng quy định, trong hồ sơ có nhiều bút lục đánh chồng chéo, một trang có 02 bút lục tồn tại song song. Các sai sót như trên cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.
(iv) Bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang có thiếu sót trong việc đưa người tham gia tố tụng, trong việc thu thập chứng cứ quan trọng, là căn cứ để giải quyết vụ án một cách chính xác, đúng pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên đương sự, mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Do đó về nội dung xét yêu cầu của nguyên đơn Nguyễn Thị T thì với chứng cứ chứng minh hiện tại có trong hồ sơ là không có đủ cơ sở để chấp nhận; nếu có chứng cứ chứng minh khác thì cấp sơ thẩm xem xét giải quyết và quyết định trong quá trình giải quyết lại vụ án.