Dự án sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công là gì? Trách nhiệm giám sát, đánh giá dự án sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công được quy định như thế nào?

Dự án sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công là gì? Trách nhiệm giám sát, đánh giá dự án sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công được quy định như thế nào?

Dự án sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công là gì? Trách nhiệm giám sát, đánh giá dự án sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công được quy định như thế nào?

Luật sư cho tôi hỏi: Tôi được biết rằng, ngoài dự án đầu tư công sử dụng vốn nhà nước còn có một loại hình dự án được gọi là dự án sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công. Tuy nhiên, tôi hiện chưa biết bản chất pháp lý của loại dự án này là gì và theo sau sự xuất hiện các dự án này thì trách nhiệm giám sát, đánh giá sẽ như thế nào để đảm bảo sử dụng hiệu quả vốn nhà nước. Vì vậy, tôi muốn hỏi Luật sư, dự án sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công là gì và trách nhiệm giám sát, đánh giá dự án sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công được quy định như thế nào theo quy định của pháp luật hiện hành? Kính mong Luật sư giải đáp thắc mắc giúp tôi.

MỤC LỤC

1. Dự án sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công là gì?

2. Trách nhiệm giám sát dự án sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công được quy định như thế nào?

3. Đánh giá dự án sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công được quy định như thế nào?

 

Trả lời:

1. Dự án sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công là gì?  

Dự án sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công được hiểu là dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước gồm:vốn chi thường xuyên ngân sách nhà nước, quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách theo Luật Ngân sách nhà nước; vốn vay do Chính phủ bảo lãnh theo Luật Quản lý nợ công; dự án đầu tư của doanh nghiệp nhà nước theo quy định của Luật Doanh nghiệp, doanh nghiệp do doanh nghiệp nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; dự án sử dụng vốn nhà nước khác theo quy định pháp luật có liên quan, trừ dự án sử dụng vốn đầu tư công.

Trong đó, vốn đầu tư công được định nghĩa tại khoản 24 Điều 4 Luật Đầu tư công 2024 như sau:

“Điều 4. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

24. Vốn đầu tư công bao gồm vốn ngân sách nhà nước chi cho đầu tư công; vốn từ nguồn thu hợp pháp của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập dành để đầu tư theo quy định của pháp luật.

…”

Như vậy, dự án sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công là dự án thoả mãn đồng thời hai đặc điểm sau: dự án có sử dụng vốn nhà nước và không bao gồm vốn đầu tư công hay nói cách khác không phải là hoạt động bỏ vốn vào các dự án đầu tư công. Qua việc xác định rõ các dự án thuộc loại này sẽ giúp phân định trách nhiệm của nhà đầu tư và các cơ quan nhà nước liên quan đến dự án đầu tư. Từ đó, đảm bảo ý nghĩa mở rộng phạm vi sử dụng vốn nhà nước linh hoạt ra ngoài các dự án đầu tư công. Góp phần vào phát triển toàn diện nền kinh tế cũng như huy động rộng hơn các nguồn lực tiềm năng khác.

2. Trách nhiệm giám sát dự án sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công được quy định như thế nào?  

Giám sát dự án sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công giúp cho việc vận hành những dự án thuộc diện này đúng quy định pháp luật, phù hợp với định hướng sử dụng vốn nhà nước. Theo đó, trách nhiệm giám sát nêu trên được quy định cụ thể tại Điều 62 Nghị định số 29/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ quy định về trình tự, thủ tục thẩm định dự án quan trọng quốc gia và giám sát, đánh giá đầu tư như sau:

“Điều 62. Trách nhiệm giám sát dự án

1. Nhà đầu tư tự tổ chức thực hiện theo dõi, kiểm tra quá trình đầu tư dự án theo nội dung và các chỉ tiêu được phê duyệt tại quyết định đầu tư.

2. Người có thẩm quyền quyết định đầu tư thực hiện theo dõi, kiểm tra dự án thuộc thẩm quyền. Việc kiểm tra được thực hiện như sau:

a) Kiểm tra ít nhất một lần đối với các dự án đầu tư từ nhóm B trở lên;

b) Kiểm tra khi điều chỉnh dự án đầu tư làm thay đổi địa điểm, mục tiêu, quy mô, tăng tổng mức đầu tư.

3. Cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước, cơ quan có thẩm quyền quyết định sử dụng vốn nhà nước để đầu tư, cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư và cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành thực hiện theo dõi, kiểm tra dự án thuộc phạm vi quản lý.

4. Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư, cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành, cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước, cơ quan có thẩm quyền quyết định sử dụng vốn nhà nước để đầu tư quyết định tổ chức kiểm tra dự án theo kế hoạch hoặc đột xuất.”

Theo quy định trên, nhà đầu tư là chủ thể có trách nhiệm tổ chức thực hiện theo dõi, kiểm tra quá trình đầu tư dự án sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công phù hợp với nội dung và các chỉ tiêu được phê duyệt tại quyết định đầu tư. Bên cạnh đó, nhằm theo dõi và nắm tình hình thực tế của dự án đầu tư, người có thẩm quyền quyết định đầu tư trong phạm vi thẩm quyền của mình, được quyền kiểm tra ít nhất một lần đối với các dự án đầu tư từ nhóm B trở lên và kiểm tra khi điều chỉnh dự án đầu tư làm thay đổi địa điểm, mục tiêu, quy mô, tăng tổng mức đầu tư.

Ngoài ra, cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước, cơ quan có thẩm quyền quyết định sử dụng vốn nhà nước để đầu tư, cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư và cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành cũng được phép thực hiện theo dõi, kiểm tra dự án thuộc phạm vi quản lý. Việc tổ chức kiểm tra dự án có thể theo kế hoạch hoặc đột xuất khi có căn cứ kiểm tra đột xuất xảy ra.

Từ phân tích trên, có thể thấy quy định về trách nhiệm giám sát dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công nhấn mạnh nguyên tắc bảo đảm tính minh bạch, hiệu quả và tuân thủ pháp luật trong quá trình triển khai đầu tư. Trong đó, đã xác lập cơ chế phân định trách nhiệm giám sát theo từng chủ thể, bao gồm nhà đầu tư, cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư, cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước và cơ quan khác. Đặc biệt, việc yêu cầu kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất giúp kịp thời phát hiện, ngăn ngừa rủi ro, thất thoát vốn hoặc sai phạm trong quá trình thực hiện. Qua đó, điều luật này tạo nền tảng cho trách nhiệm giải trình của các bên tham gia đầu tư, củng cố cơ chế kiểm soát nhà nước đối với môi trường đầu tư, góp phần bảo đảm tính công khai, hiệu quả và bền vững của các dự án phát triển kinh tế - xã hội.

3. Đánh giá dự án sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công được quy định như thế nào?  

Đồng thời với công tác giám sát là hoạt động đánh giádự án sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công nhằm kịp thời có những điều chỉnh, sửa đổi cần thiết để tăng tính hiệu quả của dự án đầu tư. Dựa trên ý nghĩa này, pháp luật nêu ra quy định về đánh giá dự án sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công tại Điều 68 Nghị định số 29/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ quy định về trình tự, thủ tục thẩm định dự án quan trọng quốc gia và giám sát, đánh giá đầu tư như sau:

“Điều 68. Đánh giá dự án sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công

1. Việc đánh giá dự án được thực hiện như sau:

a) Dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A phải thực hiện đánh giá giữa kỳ, đánh giá kết thúc và đánh giá tác động;

b) Dự án nhóm B phải thực hiện đánh giá kết thúc và đánh giá tác động;

c) Ngoài các quy định tại điểm a và điểm b khoản này, người có thẩm quyền quyết định đầu tư, cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước và cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư quyết định thực hiện đánh giá khác quy định tại khoản 4 Điều 3 Nghị định này khi cần thiết.

2. Trách nhiệm tổ chức thực hiện đánh giá dự án:

a) Nhà đầu tư chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện đánh giá giữa kỳ và đánh giá kết thúc;

b) Người có thẩm quyền quyết định đầu tư chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện đánh giá đột xuất, đánh giá tác động;

c) Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư, cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước tổ chức thực hiện các loại đánh giá theo kế hoạch và đánh giá đột xuất dự án thuộc phạm vi quản lý.

3. Nội dung đánh giá dự án áp dụng theo quy định tại Điều 73 của Luật Đầu tư công.”

Từ quy định trên có thể thấy, việc đánh giá dự án liên quan tần suất, nội dung đánh giá sẽ căn cứ vào nhóm mà dự án được xếp vào. Cụ thể:

- Đối với dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A phải thực hiện đánh giá giữa kỳ, đánh giá kết thúc và đánh giá tác động.

- Đối với dự án nhóm B chỉ phải thực hiện đánh giá kết thúc và đánh giá tác động.

Ngoài ra, người có thẩm quyền quyết định đầu tư, cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước và cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư quyết định thực hiện đánh giá khác khi cần thiết.

Bên cạnh đó, điều luật phân định trách nhiệm tổ chức thực hiện đánh giá dự án như sau:

- Nhà đầu tư là chủ thể chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện đánh giá giữa kỳ và đánh giá kết thúc;

- Người có thẩm quyền quyết định đầu tư chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện đánh giá đột xuất, đánh giá tác động;

- Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư, cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước tổ chức thực hiện các loại đánh giá theo kế hoạch và đánh giá đột xuất dự án thuộc phạm vi quản lý.

Cuối cùng, nội dung đánh giá dự án áp dụng theo quy định tại Điều 73 của Luật Đầu tư công (hiện nay là Điều 77 Luật Đầu tư công 2024). Theo đó, nội dung đánh giá dự án sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công sẽ tương tự với nội dung đánh giá đối với dự án đầu tư công. Cụ thể:

“Điều 77. Nội dung đánh giá chương trình, dự án

1. Nội dung đánh giá ban đầu bao gồm:

a) Công tác chuẩn bị, tổ chức, huy động các nguồn lực để thực hiện chương trình, dự án bảo đảm đúng mục tiêu, tiến độ đã được phê duyệt;

b) Những vướng mắc, phát sinh mới xuất hiện so với thời điểm phê duyệt chương trình, dự án;

c) Đề xuất các biện pháp giải quyết các vấn đề vướng mắc, phát sinh phù hợp với điều kiện thực tế.

2. Nội dung đánh giá giữa kỳ hoặc đánh giá giai đoạn bao gồm:

a) Sự phù hợp của kết quả thực hiện chương trình, dự án so với mục tiêu đầu tư;

b) Mức độ hoàn thành khối lượng công việc đến thời điểm đánh giá so với kế hoạch được phê duyệt;

c) Đề xuất các giải pháp cần thiết, kể cả việc điều chỉnh chương trình, dự án.

3. Nội dung đánh giá kết thúc bao gồm:

a) Quá trình thực hiện chương trình, dự án: hoạt động quản lý thực hiện chương trình, dự án; kết quả thực hiện các mục tiêu của chương trình, dự án; các nguồn lực đã huy động; các lợi ích do chương trình, dự án mang lại cho những đối tượng thụ hưởng; các tác động, tính bền vững của chương trình, dự án;

b) Bài học rút ra sau quá trình thực hiện chương trình, dự án và đề xuất các khuyến nghị cần thiết; trách nhiệm của tổ chức tư vấn, cơ quan chủ quản, chủ chương trình, chủ đầu tư, người có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

4. Nội dung đánh giá tác động của chương trình, dự án bao gồm:

a) Thực trạng kinh tế - kỹ thuật vận hành;

b) Tác động kinh tế - xã hội;

c) Tác động môi trường, sinh thái;

d) Tính bền vững của dự án;

đ) Bài học rút ra từ chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư, thực hiện, vận hành chương trình, dự án; trách nhiệm của tổ chức tư vấn, cơ quan chủ quản, chủ chương trình, chủ đầu tư, người có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

5. Nội dung đánh giá đột xuất bao gồm

a) Sự phù hợp của kết quả thực hiện chương trình, dự án đến thời điểm đánh giá so với mục tiêu đầu tư;

b) Mức độ hoàn thành khối lượng công việc đến thời điểm đánh giá so với kế hoạch được phê duyệt;

c) Xác định những phát sinh ngoài dự kiến (nếu có), nguyên nhân phát sinh ngoài dự kiến và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan;

d) Ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của những phát sinh ngoài dự án đến việc thực hiện chương trình, dự án, khả năng hoàn thành các mục tiêu của chương trình, dự án;

đ) Đề xuất các giải pháp cần thiết.

6. Chính phủ quy định phương pháp, tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư các chương trình, dự án đầu tư công.”

Tổng hợp từ các phân tích trên, các quy định về cơ chế đánh giá dự án sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công thể hiện nguyên tắc quản lý chặt chẽ, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong việc sử dụng nguồn lực nhà nước. Quy định này phân loại rõ mức độ và hình thức đánh giá theo quy mô dự án với đa dạng các hình thức đánh giá khác nhau nhằm theo dõi toàn bộ vòng đời của dự án. Đồng thời, điều luật cũng phân định trách nhiệm cụ thể giữa nhà đầu tư, cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư và cơ quan quản lý nhà nước, bảo đảm sự phối hợp đồng bộ trong công tác giám sát và đánh giá. Về ý nghĩa pháp lý, điều luật góp phần tăng cường tính công khai, minh bạch và hiệu quả sử dụng vốn nhà nước, tạo cơ sở pháp lý để kiểm soát, điều chỉnh chính sách đầu tư, ngăn ngừa thất thoát, lãng phí và nâng cao trách nhiệm của các chủ thể trong quá trình thực hiện dự án.

Trân trọng./.

Bài viết liên quan

Góp ý