
Dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn khác là gì? Trách nhiệm giám sát, đánh giá dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn khác được quy định như thế nào?
Luật sư cho tôi hỏi: Công ty tôi đang thực hiện một dự án đầu tư khu du lịch sinh thái bằng vốn tự có và vốn vay ngân hàng, hoàn toàn không sử dụng vốn nhà nước. Trong quá trình triển khai, cơ quan quản lý đầu tư địa phương có đến kiểm tra tiến độ và đánh giá tác động dự án. Tuy nhiên, tôi chưa hiểu khía cạnh pháp lý của hoạt động trên là gì. Vì vậy, tôi muốn hỏi, trong trường hợp này dự án của công ty tôi có được xem là dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn khác hay không và trách nhiệm giám sát, đánh giá đối với loại dự án này được quy định như thế nào theo pháp luật hiện hành? Kính mong Luật sư giải đáp giúp tôi.
MỤC LỤC
1. Dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn khác là gì?
2. Trách nhiệm giám sát dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn khác được quy định như thế nào?
3. Trách nhiệm đánh giá dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn khác được quy định như thế nào?
Trả lời:
1. Dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn khác là gì?
Nguồn vốn để thực hiện một dự án đầu tư có thể đến từ nhiều nguồn đa dạng khác nhau mà thông qua đó phần nào thể hiện địa vị pháp lý của dự án trong hệ thống pháp luật. Đồng thời, đây cũng là cơ sở để các quyền và nghĩa vụ phát sinh theo dự án được hình thành và yêu cầu các chủ thể liên quan phải tuân theo.
Hiện nay, trong quy định pháp luật, ngoài các dự án đầu tư có sử dụng vốn nhà nước thì phần lớn là các dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn khác. Và để rõ hơn, các dự án thuộc diện này được quy định tại khoản 18 Điều 3 Nghị định số 29/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ quy định về trình tự, thủ tục thẩm định dự án quan trọng quốc gia và giám sát, đánh giá đầu tư như sau:
“Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Nghị định này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
…
18. “Dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn khác” là dự án đầu tư không sử dụng vốn nhà nước.
…”
Theo quy định trên, có thể hiểu dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn khác ở đây là dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn ngoài vốn nhà nước. Trong đó, vốn nhà nước được hiểu bao gồm: vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do Chính phủ bảo lãnh, quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, vốn của doanh nghiệp nhà nước và vốn nhà nước khác theo quy định pháp luật. Cho thấy rằng, dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn khác đã loại trừ dứt khoát trường hợp có sự tham gia của vốn nhà nước; phân định rõ ràng ranh giới quản lý, thẩm quyền, trách nhiệm giám sát đối với từng loại dự án đầu tư khác nhau.
Như vậy, việc thừa nhận dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn khác nhằm góp phần đa dạng hoá nguồn vốn, thu hút đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau và đồng thời giảm phụ thuộc vào ngân sách nhà nước. Từ đó, có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế đi lên và phát triển môi trường đầu tư rộng khắp nhiều lĩnh vực với sự tham gia của nhiều chủ thể trong xã hội.
2. Trách nhiệm giám sát dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn khác được quy định như thế nào?
Mặc dù nguồn vốn để thực hiện dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn khác không đến từ cơ quan nhà nước nhưng ở mức độ nhất định các dự án này vẫn cần sự giám sát từ cơ quan nhà nước và chính nhà đầu tư để đảm bảo hiệu quả của dự án cũng như hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực đối với kinh tế - xã hội. Theo quy định, trách nhiệm giám sát dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn khác được đề cập tại Điều 69 Nghị định số 29/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ quy định về trình tự, thủ tục thẩm định dự án quan trọng quốc gia và giám sát, đánh giá đầu tư như sau:
“Điều 69. Trách nhiệm giám sát dự án
1. Nhà đầu tư, tổ chức kinh tế tự tổ chức thực hiện theo dõi, kiểm tra dự án.
2. Cơ quan đăng ký đầu tư thực hiện theo dõi, kiểm tra dự án trong phạm vi quản lý. Việc kiểm tra được thực hiện ít nhất một lần đối với mỗi dự án.
3. Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư và cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành thực hiện theo dõi, kiểm tra dự án trong phạm vi quản lý.
4. Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư, cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành và cơ quan đăng ký đầu tư quyết định tổ chức kiểm tra dự án theo kế hoạch hoặc đột xuất.”
Như vậy, điều luật trên đã quy định rõ trách nhiệm giám sát dự án của các chủ thể liên quan, bao gồm nhà đầu tư, cơ quan đăng ký đầu tư, cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư và cơ quan quản lý chuyên ngành. Theo đó, nhà đầu tư phải tự tổ chức theo dõi, kiểm tra dự án của mình để bảo đảm tiến độ và tuân thủ quy định pháp luật. Cơ quan đăng ký đầu tư có trách nhiệm kiểm tra ít nhất một lần đối với mỗi dự án, còn các cơ quan quản lý nhà nước và chuyên ngành thực hiện giám sát trong phạm vi chức năng của mình. Việc kiểm tra có thể tiến hành định kỳ hoặc đột xuất tùy theo yêu cầu quản lý. Qua quy định này, pháp luật đã minh bạch trách nhiệm giữa các bên, tránh tình trạng chồng chéo hoặc bỏ sót trong quá trình giám sát. Đồng thời, về ý nghĩa pháp lý, điều luật góp phần bảo đảm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và tăng cường trách nhiệm của nhà đầu tư; giúp hệ thống giám sát đầu tư trở nên chặt chẽ, hiệu quả hơn và các dự án được triển khai đúng quy định, mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội cao.
3. Trách nhiệm đánh giá dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn khác được quy định như thế nào?
Ngoài giám sát dự án thì việc đánh giá giá dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn khác cũng là một nội dung quan trọng nhằm nắm bắt tình hình dự án và kịp thời có những thay đổi phù hợp. Trách nhiệm này thuộc về các chủ thể được nêu tại khoản 1 Điều 74 Nghị định số 29/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ quy định về trình tự, thủ tục thẩm định dự án quan trọng quốc gia và giám sát, đánh giá đầu tư như sau:
“Điều 74. Đánh giá dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn khác
1. Trách nhiệm tổ chức thực hiện đánh giá dự án:
a) Nhà đầu tư, tổ chức kinh tế thực hiện dự án thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư phải đánh giá kết thúc;
b) Cơ quan đăng ký đầu tư và cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư tổ chức thực hiện đánh giá đột xuất và đánh giá tác động khi cần thiết.
…”
Theo quy định trên, trách nhiệm đánh giá dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn khác phụ thuộc vào chủ thể, địa vị pháp lý của dự án đầu tư mà có sự khác nhau. Cụ thể:
- Nhà đầu tư, tổ chức kinh tế thực hiện dự án thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư có trách nhiệm đánh giá kết thúc dự án để nhận biết toàn diện các khía cạnh của dự án đầu tư cũng như rút ra những bài học, đề xuất các khuyến nghị cần thiết cho việc thực hiện dự án khác trong tương lai;
- Cơ quan đăng ký đầu tư và cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư khi cần thiết, tổ chức thực hiện đánh giá đột xuất nhằm làm rõ các vấn đề, vướng mắc nảy sinh cũng như tính tác động của dự án đối với kinh tế, xã hội,...
Qua đó, quy định này thể hiện sự cân bằng giữa quyền tự chủ của nhà đầu tư và vai trò giám sát của Nhà nước. Góp phần bảo đảm tính minh bạch, trách nhiệm và hiệu quả trong việc sử dụng nguồn vốn tư nhân, đồng thời tăng cường công tác quản lý, phòng ngừa rủi ro và thúc đẩy phát triển bền vững.
Trân trọng./.












