Chế độ thông tin, báo cáo, kiểm toán và công khai báo cáo tài chính của Quỹ bảo lãnh tín dụng được thực hiện như thế nào?

Chế độ thông tin, báo cáo, kiểm toán và công khai báo cáo tài chính của Quỹ bảo lãnh tín dụng được thực hiện như thế nào?

Chế độ thông tin, báo cáo, kiểm toán và công khai báo cáo tài chính của Quỹ bảo lãnh tín dụng được thực hiện như thế nào?

Luật sư cho tôi hỏi: Tôi là chủ một doanh nghiệp nhỏ ở tỉnh, vừa được Quỹ bảo lãnh tín dụng địa phương xem xét cấp bảo lãnh để vay vốn ngân hàng. Khi tìm hiểu thêm, tôi thấy có quy định về việc Quỹ phải thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, kiểm toán và công khai báo cáo tài chính hằng năm. Tuy nhiên, tôi chưa hiểu rõ việc này được tiến hành ra sao, ai có trách nhiệm thực hiện và công khai ở đâu? Mong luật sư giải đáp giúp tôi, xin cảm ơn.

MỤC LỤC

1. Chế độ thông tin, báo cáo của Quỹ bảo lãnh tín dụng được thực hiện như thế nào?

2. Pháp luật quy định thế nào về kiểm toán và công khai báo cáo tài chính của Quỹ bảo lãnh tín dụng?

 

Trả lời:

1. Chế độ thông tin, báo cáo của Quỹ bảo lãnh tín dụng được thực hiện như thế nào?

Chế độ thông tin và báo cáo đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính minh bạch, công khai và hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo Điều 44 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 08/3/2018 của Chính phủ về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ghi nhận như sau:

Điều 44. Chế độ thông tin, báo cáo

1. Quỹ bảo lãnh tín dụng có trách nhiệm:

a) Lập và gửi các báo cáo định kỳ 06 tháng về Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Sở Tài chính, Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước cấp tỉnh nơi có Quỹ bảo lãnh tín dụng thành lập và hoạt động;

b) Lập và gửi báo cáo hàng năm về Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

2. Các loại báo cáo định kỳ 06 tháng và hàng năm quy định tại khoản 1 Điều này, gồm:

a) Báo cáo tài chính, gồm: Bảng cân đối kế toán; báo cáo kết quả hoạt động; báo cáo lưu chuyển tiền tệ; báo cáo tình hình biến động vốn chủ sở hữu; bản thuyết minh báo cáo tài chính theo quy định của pháp luật; Báo cáo tình hình thu chi tài chính; báo cáo tình hình phân phối chênh lệch thu, chi và sử dụng các quỹ theo hướng dẫn của Bộ Tài chính;

b) Báo cáo hoạt động nghiệp vụ: Báo cáo tổng hợp tình hình hoạt động của các dự án được cấp bảo lãnh;

c) Báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính năm.

3. Thời hạn gửi báo cáo:

a) Báo cáo 06 tháng gửi chậm nhất sau 30 ngày kể từ ngày kết thúc 06 tháng;

b) Báo cáo năm được gửi chậm nhất là sau 90 ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính; riêng báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính năm của Quỹ bảo lãnh tín dụng do tổ chức kiểm toán độc lập thực hiện được gửi chậm nhất là sau 120 ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính.

4. Trường hợp đột xuất, Quỹ bảo lãnh tín dụng có trách nhiệm, nghĩa vụ cung cấp thông tin, báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền khi có yêu cầu.

5. Định kỳ hàng năm, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh báo cáo Hội đồng nhân dân cấp tỉnh tình hình hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng để Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thực hiện giám sát. Nội dung báo cáo gồm:

a) Tình hình hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng gồm: Doanh số, tổng dư nợ bảo lãnh, lĩnh vực bảo lãnh, nghĩa vụ trả nợ thay;

b) Tài chính của Quỹ bảo lãnh tín dụng: Nguồn vốn hoạt động, thu - chi tài chính, trích lập dự phòng rủi ro;

c) Nhận xét, đánh giá và kiến nghị về hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng.”

* Lưu ý: Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng với Bộ Tài chính được hợp nhất thành Bộ Tài chính (căn cứ mục 2.3 Phần II Kết luận số 121-KL/TW ngày 24/01/2025 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XIII về tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và khoản 6 Điều 1 Nghị quyết số 176/2025/QH15 ngày 18/02/2025 của Quốc hội về cơ cấu tổ chức của Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khoá XV).

Theo đó, Quỹ bảo lãnh tín dụng có trách nhiệm lập và gửi các báo cáo định kỳ 06 tháng về cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Sở Tài chính, Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước cấp tỉnh nơi có Quỹ bảo lãnh tín dụng thành lập và hoạt động cũng như lập và gửi báo cáo hàng năm về Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trong đó, các loại báo cáo định kỳ 06 tháng và hàng năm nêu trên gồm có báo cáo tài chính, báo cáo hoạt động nghiệp vụ và báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính năm như trên đã liệt kê chi tiết. Điều này bảo đảm hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng luôn được theo dõi, giám sát kịp thời, giúp cơ quan có thẩm quyền nắm bắt tình hình tài chính và nghiệp vụ để có biện pháp chỉ đạo phù hợp.

Về thời hạn gửi báo cáo, điều khoản này xác định rõ thời hạn gửi báo cáo định kỳ, giúp đảm bảo tiến độ công tác báo cáo, tránh tình trạng chậm trễ hoặc thiếu sót trong quá trình tổng hợp và công bố thông tin. Việc quy định thời gian cụ thể cũng giúp các cơ quan quản lý có đủ cơ sở để theo dõi, đánh giá đúng tình hình hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Chi tiết như sau:

- Đối với báo cáo 06 tháng thì gửi chậm nhất sau 30 ngày kể từ ngày kết thúc 06 tháng;

- Đối với báo cáo năm thì phải được gửi chậm nhất là sau 90 ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính; riêng báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính năm của Quỹ bảo lãnh tín dụng do tổ chức kiểm toán độc lập thực hiện được gửi chậm nhất là sau 120 ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính.

Nếu thuộc trường hợp đột xuất, Quỹ bảo lãnh tín dụng có trách nhiệm, nghĩa vụ cung cấp thông tin, báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền khi có yêu cầu. Điều này nhằm giúp tăng tính linh hoạt và kịp thời trong quản lý, đảm bảo nhà nước có thể nắm bắt và xử lý ngay các vấn đề phát sinh trong hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng.

Đối với phương thức gửi báo cáo, được ghi nhận tại khoản 2 Điều 20 Thông tư số 15/2019/TT-BTC ngày 18/3/2019 của Bộ Tài chính hướng dẫn cơ chế quản lý tài chính và đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa được bổ sung bởi Thông tư số 84/2020/TT-BTC ngày 01/10/2020 của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung quy định về chế độ báo cáo định kỳ thuộc thẩm quyền quyết định của bộ trưởng bộ tài chính trong lĩnh vực tài chính ngân hàng như sau:

Điều 20. Chế độ thông tin, báo cáo, kiểm toán và công khai báo cáo tài chính của Quỹ bảo lãnh tín dụng.

2. Phương thức gửi báo cáo thực hiện theo một trong các phương thức sau:

a) Gửi trực tiếp dưới hình thức văn bản giấy;

b) Gửi qua dịch vụ bưu chính dưới hình thức văn bản giấy;

c) Gửi qua hệ thống thư điện tử hoặc hệ thống phần mềm thông tin báo cáo chuyên dùng;

d) Các phương thức khác theo quy định của pháp luật.”

Như vậy, Quỹ bảo lãnh tín dụng có thể thực hiện một trong các phương thức gửi báo cáo gồm:

- Gửi trực tiếp dưới hình thức văn bản giấy;

- Gửi qua dịch vụ bưu chính dưới hình thức văn bản giấy;

- Gửi qua hệ thống thư điện tử hoặc hệ thống phần mềm thông tin báo cáo chuyên dùng;

- Các phương thức khác theo quy định của pháp luật.

Việc cho phép Quỹ bảo lãnh tín dụng lựa chọn nhiều hình thức gửi khác nhau, từ văn bản giấy đến hệ thống điện tử, giúp tiết kiệm thời gian, chi phí và nâng cao hiệu quả trao đổi thông tin. Đồng thời, quy định này cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, lưu trữ và giám sát báo cáo, góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trong công tác quản lý tài chính công.

Ngoài ra, định kỳ hàng năm, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải báo cáo Hội đồng nhân dân cấp tỉnh tình hình hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng để Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thực hiện giám sát. Trong đó, nội dung báo cáo đảm bảo gồm có:

- Tình hình hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng gồm: Doanh số, tổng dư nợ bảo lãnh, lĩnh vực bảo lãnh, nghĩa vụ trả nợ thay;

- Tài chính của Quỹ bảo lãnh tín dụng: Nguồn vốn hoạt động, thu - chi tài chính, trích lập dự phòng rủi ro;

- Nhận xét, đánh giá và kiến nghị về hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng.

Từ những phân tích trên, ta thấy rằng điều luật này thể hiện sự chặt chẽ và khoa học trong công tác quản lý, giúp việc báo cáo được thực hiện đúng thời hạn và thuận tiện hơn. Việc đa dạng phương thức gửi báo cáo tạo điều kiện linh hoạt cho Quỹ bảo lãnh tín dụng trong trao đổi thông tin với cơ quan quản lý. Đồng thời, quy định này góp phần nâng cao tính minh bạch, trách nhiệm và hiệu quả hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng.

2. Pháp luật quy định thế nào về kiểm toán và công khai báo cáo tài chính của Quỹ bảo lãnh tín dụng?

Kiểm toán và công khai báo cáo tài chính là một trong những nội dung quan trọng trong cơ chế quản lý tài chính của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Quy định này được nêu rõ tại Điều 45 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 08/3/2018 của Chính phủ về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa như sau:

Điều 45. Kiểm toán và công khai báo cáo tài chính

1. Báo cáo tài chính hàng năm của Quỹ bảo lãnh tín dụng phải được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán độc lập hoặc kiểm toán nhà nước và được công khai theo quy định của pháp luật hiện hành.

2. Hàng năm, Kiểm soát viên của Quỹ bảo lãnh tín dụng trình Chủ tịch Quỹ bảo lãnh tín dụng lựa chọn một tổ chức kiểm toán độc lập thành lập và hoạt động tại Việt Nam để kiểm toán báo cáo tài chính của Quỹ bảo lãnh tín dụng.

3. Kiểm soát viên của Quỹ bảo lãnh tín dụng tổ chức, kiểm tra, kiểm soát theo kế hoạch việc chấp hành chế độ tài chính kế toán tại Quỹ bảo lãnh tín dụng và báo cáo kết quả kiểm tra, kiểm soát cho Chủ tịch Quỹ bảo lãnh tín dụng.”

Như vậy, báo cáo tài chính hàng năm của Quỹ bảo lãnh tín dụng phải được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán độc lập hoặc kiểm toán nhà nước và phải được công khai theo luật định. Từ đó, giúp đảm bảo tính minh bạch, trung thực và khách quan của các số liệu tài chính, ngăn ngừa gian lận, sai phạm, đồng thời nâng cao niềm tin của các cơ quan quản lý, ngân hàng và doanh nghiệp đối với hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Việc công khai thông tin còn góp phần thúc đẩy trách nhiệm giải trình và tăng cường niềm tin công chúng.

Hàng năm, Kiểm soát viên của Quỹ bảo lãnh tín dụng sẽ trình Chủ tịch Quỹ bảo lãnh tín dụng lựa chọn một tổ chức kiểm toán độc lập và hoạt động tại Việt Nam để kiểm toán báo cáo tài chính của Quỹ bảo lãnh tín dụng. Quy định này thể hiện sự phân định rõ ràng thẩm quyền và trách nhiệm giữa các bộ phận trong Quỹ bảo lãnh tín dụng, giúp đảm bảo quy trình kiểm toán diễn ra minh bạch, khách quan và chuyên nghiệp. Đồng thời, việc lựa chọn tổ chức kiểm toán độc lập cũng giúp nâng cao chất lượng và độ tin cậy của kết quả kiểm toán.

Bên cạnh đó, Kiểm soát viên của Quỹ bảo lãnh tín dụng còn phải tổ chức, kiểm tra, kiểm soát theo kế hoạch việc chấp hành chế độ tài chính kế toán tại Quỹ bảo lãnh tín dụng và báo cáo kết quả kiểm tra, kiểm soát cho Chủ tịch Quỹ bảo lãnh tín dụng. Đây là một cơ chế giám sát nội bộ quan trọng, giúp phát hiện và xử lý kịp thời sai phạm, đảm bảo các hoạt động tài chính của Quỹ bảo lãnh tín dụng tuân thủ đúng quy định pháp luật.

Tóm lại, quy định về kiểm toán và công khai báo cáo tài chính tại điều khoản này đóng vai trò then chốt trong việc đảm bảo minh bạch, trung thực và hiệu quả của hoạt động tài chính Quỹ bảo lãnh tín dụng. Các quy định này không chỉ giúp cơ quan quản lý nhà nước giám sát chặt chẽ hơn mà còn góp phần củng cố niềm tin của doanh nghiệp, tổ chức tín dụng và xã hội đối với hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng.

Trân trọng./.

Bài viết liên quan

Góp ý