Nội dung sửa án:
(i) Đối với trường hợp của khách hen Si H4 cũng với số tiền cho thuê phòng 3.000.000 đồng/tháng nhưng được tính trừ chi phí hợp lý tiền điện nước số tiền là 7.363.000 đồng (còn thu lợi 28.137.000 đồng) nhưng đối với trường hợp của 02 khách là Zhao T2 và Su H cũng với số tiền cho thuê phòng 3.000.000 đồng/tháng nhưng không được tính trừ chi phí hợp lý tiền điện nước là không phù hợp thực tế khách quan và chưa chính xác như ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tại phiên tòa là có cơ sở. Vì vậy, HĐXX cấp phúc thẩm xác định số tiền cáo Lê Trường G chi phí hợp lý tiền điện nước đối với trường hợp của 02 khách là Zhao T2 và S1 Hong Wei là: (7.363.000 đồng: 16 tháng) x 24 tháng (Zhao Tao 14 tháng, Su H 10 tháng) = 11.045.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền mà cáo Lê Trường G thu lợi bất chính trong vụ án là 89.092.000 đồng và cáo Lê Trường G không phạm vào tình tiết định khung tăng nặng theo điểm khoản 2 Điều 348 của Bộ luật Hình sự: “Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”.
(ii) Tuy nhiên, như đã nhận định tại phần [2]; bị cáo Lê Trường G không phạm vào tình tiết định khung tăng nặng theo điểm đ khoản 2 Điều 348 của Bộ luật Hình sự như Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng để quyết định hình phạt. Đồng thời, bị cáo phạm tội lần đầu và thời điểm phạm tội của bị cáo là trong hoàn cảnh: là thời gian cao điểm mà toàn xã hội phải thực hiện chỉ thị 15/CT-TTg và 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ cũng đã làm ảnh hưởng đến nhận thức và tâm lý trong việc thực hiện các thủ tục tạm trú theo quy định. Bên cạnh đó, tại giai đoạn phúc thẩm; bị cáo tiếp tục nộp toàn bộ số tiền thu lợi bất chính và tiền phạt bổ sung theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, HĐXX chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và giảm cho bị cáo Lê Trường G một phần hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tại phiên tòa.
