
Cạnh tranh là gì? Các loại hình cạnh tranh trong kinh doanh bao gồm những gì?
Luật sư cho tôi hỏi: Tôi nghe nói trong kinh doanh thì ai cũng phải cạnh tranh với nhau, vậy cho tôi hỏi cạnh tranh là gì? Với lại trong kinh doanh thì có mấy kiểu cạnh tranh, gồm những gì vậy? Mong luật sư giải đáp.
MỤC LỤC
2. Các loại hình cạnh tranh trong kinh doanh bao gồm những gì?
Trả lời:
1. Cạnh tranh là gì?
Cạnh tranh là khái niệm rất rộng, xuất hiện trong hầu hết các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, từ cuộc sống hằng ngày đến các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, thể thao,... và có khá nhiều định nghĩa, cách hiểu khác nhau về cạnh tranh.
K. Marx đưa ra khái niệm “Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm dành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Nghiên cứu sâu về sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa và cạnh tranh tư bản chủ nghĩa Marx đã phát hiện ra quy luật cơ bản của cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận bình quân, và qua đó hình thành nên hệ thống giá cả thị trường. Quy luật này dựa trên những chênh lệch giữa giá cả chi phí sản xuất và khả năng có thể bán hàng hoá dưới giá trị của nó nhưng vẫn thu được lợi nhuận.
Theo từ điển kinh doanh (xuất bản năm 1992 ở Anh) thì khái niệm cạnh tranh trong cơ chế thị trường được định nghĩa là “Sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm giành tài nguyên sản xuất cùng một loại hàng hoá về phía mình”.
Theo Từ điển Bách khoa Việt nam (tập 1) Cạnh tranh (trong kinh doanh) là hoạt động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối quan hệ cung cầu, nhằm dành các điều kiện sản xuất , tiêu thụ thị trường có lợi nhất.
Như vậy, có thể hiểu cạnh tranh ở 03 góc độ:
Thứ nhất, cách hiểu theo nghĩa thông thường thì cạnh tranh là một sự kiện, một cuộc đua, theo đó các đối thủ ganh đua với nhau để dành phần hơn hoặc ưu thế tuyệt đối về phía mình.
Thứ hai, theo gốc độ kinh tế thì cạnh tranh được hiểu là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường nhằm mục đích là thu hút về phía mình ngày càng nhiều khách hàng, thị phần.
Thứ ba, cạnh tranh dưới góc độ pháp lý. Hiện nay, không có định nghĩa hay khái niệm thống nhất về cạnh tranh. Tuy nhiên, thông qua các quy định của pháp luật cạnh tranh, ta có thể hiểu cạnh tranh là những hành vi nhằm mục đích chiếm ưu thế về phía mình giữa các đối thủ.
Trong nền kinh tế thị trường, nếu quan hệ cung cầu là cốt vật chất, giá cả là diện mạo thì cạnh tranh là linh hồn của thị trường. Nhờ có cạnh tranh, với sự thay đổi liên tục về nhu cầu và khát vọng của con người mà nền kinh tế thị trường đã đem lại những bước phát triển nhảy vọt mà loài người chưa từng có được trong các hình thái kinh tế trước đó. Khát khao tối đa hóa lợi nhuận của nhà kinh doanh sẽ mau chóng trở thành động lực thúc đẩy họ sáng tạo, đổi mới không ngừng, làm cho cạnh tranh trở thành động lực của sự phát triển.
2. Các loại hình cạnh tranh trong kinh doanh bao gồm những gì?
Trong kinh tế học và trong khoa học pháp lý, các nhà khoa học có nhiều cách phân loại cạnh tranh khác nhau để phục vụ cho nhiệm vụ nghiên cứu hoặc cho công tác xây dựng chính sách cạnh tranh.
Thứ nhất, dựa vào vai trò điều tiết của Nhà nước, cạnh tranh được chia thành 02 loại là cạnh tranh tự do và cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước. Từ đó, làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận để lý giải cho sự xuất hiện của Nhà nước vào đời sống cạnh tranh, làm cơ sở cho việc tìm kiếm những phương tiện để điều tiết thị trường.
(1) Cạnh tranh tự do
Khái niệm cạnh tranh tự do được hiểu từ sự phân tích các chính sách xây dựng và duy trì thị trường tự do, theo đó “thị trường tự do tồn tại khi không có sự can thiệp của Chính phủ và tại đó các tác nhân cung cầu được phép hoạt động tự do”. Do đó, lý thuyết về cạnh tranh tự do đưa ra mô hình cạnh tranh mà ở đó các chủ thể tham gia cuộc tranh đua hoàn toàn chủ động và tự do ý chí trong việc xây dựng và thực hiện các chiến lược, các kế hoạch kinh doanh của mình.
(2) Cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước
Khác với cạnh tranh tự do, cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước là hình thức cạnh tranh mà ở đó Nhà nước bằng các chính sách và công cụ pháp luật can thiệp vào đời sống thị trường để điều tiết, hướng các quan hệ cạnh tranh vận động và phát triển trong một trật tự, đảm bảo sự phát triển công bằng và lành mạnh.
Thứ hai, căn cứ vào tính chất, mức độ biểu hiện, cạnh tranh được chia thành cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh không hoàn hảo và độc quyền.
(1) Cạnh tranh hoàn hảo
Cạnh tranh hoàn hảo là hình thức cạnh tranh mà ở đó người mua và người bán đều không có khả năng tác động đến giá cả của sản phẩm trên thị trường. Trong hình thái thị trường cạnh tranh hoàn hảo, giá cả của sản phẩm hoàn toàn do quan hệ cung cầu, quy luật giá trị quyết định; không có sự tồn tại của bất cứ khả năng hay quyền lực nào có thể chi phối các quan hệ trên thị trường.
(2) Cạnh tranh không hoàn hảo
Cạnh tranh không hoàn hảo là hình thức cạnh tranh chiếm ưu thế trong các ngành sản xuất mà ở đó, các doanh nghiệp phân phối hoặc sản xuất có đủ sức mạnh và thế lực để có thể chi phối giá cả các sản phẩm của mình trên thị trường. Trong thực tế, hình thức cạnh tranh không hoàn hảo là hình thức cạnh tranh phổ biến trên thị trường, ở nhiều lĩnh vực, nhiều ngành của nền kinh tế.
(3) Độc quyền
Độc quyền tồn tại khi chỉ có một doanh nghiệp duy nhất sản xuất hoặc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường mà không có sự thay thế từ các sản phẩm hoặc các chủ thể kinh doanh khác. Khi có vị trí độc quyền, thị trường sẽ trao cho doanh nghiệp quyền lực của mình, khả năng tác động đến giá cả thị trường của một loại hàng hoá, dịch vụ nhất định. Như vậy, độc quyền là một thuật ngữ để chỉ việc một doanh nghiệp duy nhất tồn tại trên thị trường mà không có đối thủ cạnh tranh. Doanh nghiệp độc quyền có thể độc quyền nguồn cung (độc quyền bán) hoặc độc quyền cầu (độc quyền mua) trên thị trường.
Thứ ba, dựa vào tính lành mạnh và sự tác động của hành vi đối với thị trường, các hành vi được chia làm 03 loại là cạnh tranh lành mạnh, cạnh tranh không lành mạnh và hạn chế cạnh tranh.
(1) Hành vi cạnh tranh lành mạnh
Theo cuốn Black’s Law Dictionary, cạnh tranh lành mạnh được định nghĩa “là hình thức cạnh tranh công khai, công bằng và ngay thẳng giữa các đối thủ cạnh tranh trong kinh doanh”. Hiện nay, là khái niệm chỉ có ý nghĩa về mặt lý thuyết, cạnh tranh lành mạnh không phải là khái niệm luật định cho dù bất cứ đạo luật cạnh tranh nào cũng đều hướng đến xây dựng và hoàn thiện một thị trường cạnh tranh lành mạnh. Trong khoa học pháp lý, người ta cũng chưa có được bất cứ khái niệm nào về cạnh tranh lành mạnh làm vừa lòng tất cả những nhà khoa học.
(2) Hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Khoản 2 Điều 10 Bis Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp 1883, được sửa đổi tại Brussels ngày 14/12/1900, tại Washington ngày 2/6/1911, tại LaHay ngày 6/11/1925, tại London ngày 2/6/1934, tại Lisbon ngày 31/10/1958 và tại Stockholm ngày 14/7/1967 và được tổng sửa đổi ngày 28/9/1979 quy định:
“Điều 10 Bis. Cạnh tranh không lành mạnh
(2) Bất cứ hành vi cạnh tranh nào trái với các hoạt động thực tiễn, không trung thực trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại đều bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh”.
Theo pháp luật Việt Nam, căn cứ khoản 6 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2018 quy định:
“Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
6. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi của doanh nghiệp trái với nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác.”
Như vậy, hành vi cạnh tranh không lành mạnh được hiểu là những hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.
(3) Hành vi hạn chế cạnh tranh
Căn cứ theo khoản 2 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2018:
“Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
2. Hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh, bao gồm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và lạm dụng vị trí độc quyền.”
Như vậy, chỉ có những hành vi được đánh giá là gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh mới được coi là hành vi hạn chế cạnh tranh. Trong đó bao gồm các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và lạm dụng vị trí độc quyền.
Trân trọng./.