Bản án lao động phúc thẩm số 21/2017/LĐ-PT ngày 11/09/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai về việc tranh chấp chi phí đào tạo trong hợp đồng đào tạo nghề

26/07/2024
Luật Nghinh Phong
267
0

Nội dung hủy án:

1. Quá trình giải quyết vụ án, bà Nguyễn Thị N và bị đơn đều không cung cấp được hợp đồng lao động về việc đào tạo nâng cao tay nghề cho công nhân tại Công ty U. Theo đại diện theo ủy quyền của bị đơn, mọi chi phí gồm hộ chiếu, visa, vé máy bay khứ hồi, nhà ở, điện, nước, gas, tiền học phí, phí giao thông của bà N khi làm tại Nhật do Công ty U chi trả; nhưng theo lời khai của bà N, bà Nguyễn Kiều O và ông Nguyễn Hữu T (là những người được đưa đi đào tạo tại Nhật trước và sau bà N) đều xác định không được Công ty E giao hợp đồng, chỉ biết có thỏa thuận Công ty E chịu tất cả các chi phí cho người lao động khi sang đào tạo tại Nhật và khi làm việc tại Nhật, bà N (cũng như ông T và bà O) đều xác định Công ty U trực tiếp thanh toán, chi trả toàn bộ các khoản tiền (qua tài khoản bà N, ông T, bà O được lập khi sang Nhật làm việc) và hàng tháng Công ty U có giao cho người lao động các bảng lương để kiểm tra. Mặt khác, bà Nguyễn Thị A là đại diện theo ủy quyền của Công ty E đã cung cấp cho Tòa án 01 bản dịch tài liệu của Công ty U gửi cho Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa (trong vụ án khác có nội dung tranh chấp tương tự như trường hợp khởi kiện của bà N) với nội dung Công ty E không liên quan trong việc chi trả kinh phí cho công nhân sang Nhật tu nghiệp. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án trong khi chưa tiến hành làm việc, xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ về quan hệ, thỏa thuận hợp đồng giữa Công ty E và Công ty U trong việc đưa người lao động đi tu nghiệp nâng cao tay nghề tại Nhật, trong việc thanh toán các chi phí của người lao động để trên cơ sở đó xác định tư cách tố tụng của Công ty U theo khoản 4 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và xác định thẩm quyền giải quyết vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

2. Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ các bảng lương của Công ty U (đều bằng tiếng nước ngoài không có bản dịch sang tiếng Việt được công chứng, chứng thực) do bà N cung cấp để nhận định “Theo bảng lương hàng tháng của bà N, ông T đều thể hiện các cột trừ điện, nước, gas là 40.000 Yên phù hợp giữa lời khai, chứng cứ do nguyên đơn, nhân chứng cung cấp và thừa nhận” để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tuy tại phiên tòa phúc thẩm, các bảng lương đã được dịch sang tiếng Việt; tuy nhiên, các tài liệu này đều là bản phô tô, không có dấu mộc, từng khoản thanh toán, chi phí thể hiện trên bảng lương chưa được làm rõ. Do đó, việc thu thập, đánh giá chứng cứ của Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng theo Điều 95, 96 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Bài viết liên quan

Góp ý