THÔNG BÁO RÚT KINH NGHIỆM SỐ 29/TB-VC2-DS NGÀY 25/3/2024 CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG VỀ KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
Nội dung vấn đề cần rút kinh nghiệm:
Tòa án sơ thẩm công nhận thuận tình ly hôn, xác định tài sản chung, nợ chung và chia tài sản chung cho các đương sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, lại có vi phạm trong việc quyết định về án phí và chi phí tố tụng khác, cụ thể như sau:
1. Về ản phí:
- Án phí ly hôn: Tòa sơ thẩm công nhận thuận tình ly hôn giữa bà Huỳnh Thị H và ông Trương Văn T nhưng lại buộc bà H chịu toàn bộ án phí ly hôn 300.000 đồng là không đúng qui định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326 /2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban TVQH qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án qui định: “trường hợp thuận tình ly hôn thì mỗi bên đương sự phải chịu 50% mức án phỉ”. Trong vụ ản này, án phí ly hôn sơ thẩm bà H phải chịu 50% mức án phí tương ứng số tiền 150.000 đồng, ông T phải chịu 50% mức án phí, tương ứng số tiền 150.000đồng mới đúng qui định pháp luật.
Án phí chia tài sản chung: Tòa sơ thẩm xác định giá trị tài sản chung là 2.841.082.040đồng (sau khi đã trừ khoản nợ chung), bà H, ông T được nhận 1/2 giá trị tài sản trong khối tài sản chung (tương ứng mỗi người được nhận số tiền 1.420.541.020đồng), Tòa sơ thẩm buộc ông T, bà H mỗi người phải chịu án phí54.148.230 đồng là không đúng qui định tại điểm b khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326, điểm d mục 1.3 mục II Án phí dân sự ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban TVQH qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Số tiền án phí sơ thẩm ông T, bà H phải chịu đúng qui định pháp luật là 54.616.230 đồng (36 triệu + 3%(620.541.021d) = 54.616.230đồng).
- Án phí nợ chung: Tòa sơ thẩm xác định nợ chung trong thời kỳ hôn nhân là 595.443.960đồng và áp dụng điểm b mục 1.3 phần II án phí dân sự ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban TVQH qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án để tuyên buộc bà H phải chịu án phí nợ chung 14.886.099đồng (595.443.960 x 5% :2), ông T chịu án phí nợ 15.886.099đồng là không đúng qui định.
Đối với số tiền nợ chung 595.443.960 đồng thì phải áp dụng điểm c mục 1.3 phần II Án phí dân sự ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 nên án phí nợ chung bà H phải chịu là: 13.908.879đồng (20.000.000 + 4% x (595.443.960-400.000.000). Riêng ông T phải chịu án phí với khoản nợ riêng số tiền 1.000.000đồng và án phí nợ chung là 13.908.879 đồng, tổng số tiền án phí nợ là: 14.908.879 đồng.
2. Về chi phí tố tụng khác:
Chi phí giám định chữ viết: Quá trình giải quyết vụ án tại giai đoạn sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự đều thừa nhận yêu cầu Tòa án giám định chữ viết, trong đó ông T yêu cầu giám định Giấy viết tay ngày 22/9/2018 của bà Huỳnh Thị H với chi phí giám định ông T đã nộp là 4.350.000đồng; Đại diện ủy quyền của ông Long bà Gái có yêu cầu độc lập là bà Trương Thị Hóa yêu cầu giám định bức thư ngày 25/7/2015, bà Hóa đã nộp chi phí giám định số tiền 4.000.000 đồng; Bà H yêu cầu 02 lần giám định chữ viết bức thư ngày 25/7/2015 và nộp chi phí giám định số tiền 10.000.000 đồng. Tổng chi phí giám định chữ viết qua 04 lần là 18.350.000 đồng.
Quá trình giải quyết vụ án bà H không đồng ý với khoản nợ chung đối với ông Long, bà gái (khoản nợ 15.000 đô la Mỹ) nhưng căn cứ tài liệu chứng cứ và kết luận giám định chữ viết qua các lần giám định tòa sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Long, bà Gái nên bà H phải có nghĩa vụ chịu toàn bộ chi phígiám định, tòa sơ thẩm buộc bà H phải chịu 13.000.000đồng chi phí giám định là chưa phù hợp với thực tế số tiền các đương sự đã nộp qua 4 lần giám định, đồng thời không buộc bà H phải có trách nhiệm thối trả lại số tiền tạm ứng chi phí giám định mà ông T đã nộp 4.350.000 đồng, bà Hóa đã nộp thay ông Long, bà Gái 4.000.000 đồng là không đúng qui định tại khoản 1 Điều 161 Bộ luật Tố tụng dân sự, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Tiên và ông Long, bà Gái. Do đó, cấp phúc thẩm đã buộc bà H phải có nghĩa vụ thanh toán chi phí giám định cho ông Tiên số tiền 4.350.000 đồng và cho ông Long, bà Gái số tiền 4.000.000đồng.
Về chi phí thẩm định, định giá đối với tài sản chung : Tài sản chung các bên yêu cầu và thẩm định, định giá 3 lần với tổng số tiền là 44.250.000đồng, mỗi bên chịu ½ tương ứng số tiền: 22.125.000đồng. Tòa sơ thẩm tuyên buộc ông T phải thanh toán cho bà H chi phí tố tụng khác là 23.125.000 đồng là chưa đúng qui định tại khoản 2 Điều 157; khoản 2 Điều 165 Bộ luật Tố tụng dân sự, bởi theo tài liệu hồ sơ và chứng từ ông T, bà H cung cấp thể hiện: lần 1 số tiền 13.650.000 đồng, bà H nộp 12.000.000 đồng; ông T nộp 1.650.000 đồng; lần 2 số tiền 13.6000 đồng và lần 3 số tiền 17.000.000 đồng đều do ông T nộp. Do đó, cấp phúc thẩm đã buộc bà H phải có nghĩa vụ thanh toán cho ông T số tiền 10.175.000 đồng (22.125.000 đồng – 12.000.000 đồng).
Quá trình giải quyết vụ án, cấp sơ thẩm thực hiện giám định chữ viết và thẩm định, định giá tài sản chung nhiều lần nhưng lại không lưu đầy đủ các biên lai mà các đương sự đã nộp cho tòa án, dẫn đến khi quyết định về chi phí giám định, chi phí thẩm định, định giá đã có sai lầm trong việc đối trừ nghĩa vụ giữa các đương sự, bỏ sót các khoản tiền mà bị đơn và người có QLNVLQ có yêu cầu độc lập đã nộp làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn và người CQLNVLQ, đồng thời cấp sơ thẩm áp dụng qui định về tính án phí còn có sai sót. Do đó, cấp phúc thẩm đã quyết định chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn, sửa Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 79/2023/HNGĐ-ST ngày 29/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố N về án phí và chi phí tố tụng khác như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.
Vụ án này, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N không phát hiện kịp thời vi phạm của tòa án cấp sơ thẩm về án phí và chi phí tố tụng khác để kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm hoặc đề nghị Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng kháng nghị phúc thẩm là thiếu sót nên cần rút kinh nghiệm.
